TÌM HIỂU VỀ THỂ THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ
(Dương Ngọc Sáng tổng hợp)
Nguồn gốc
Thể thơ thất
ngôn bát cú là cổ thi, xuất hiện sớm ở Trung Quốc.
Đến đời nhà Đường mới được các nhà thơ đặt quy định
cụ thể, rõ ràng, kéo dài trong chế độ phong
kiến. Thể thơ này đã được các đời vua Trung Quốc và Việt Nam dùng
cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài, rất phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc,
chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.
Thể thơ có luật
rất chặt chẽ. Tuy nhiên, trong quá trình sáng tác nhất là vào phong trào thơ mới
tại Việt Nam từ năm 1925, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt
tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng
trong từng câu thơ.
Luật bằng trắc
Cấu trúc bài
thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vần
bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ quy định rất
nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh
tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người
ta đã có những câu nói vấn đề về luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi
câu thơ: các tiếng nhất - tam - ngũ bất luận còn các tiếng: nhị - tứ - lục phân
minh. Thể bằng là các dấu thanh và huyền. Thể trắc là 4 dấu còn lại( dấu sắc,dấu
hỏi, dấu nặng, dấu ngã)
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
·
Thanh:..B...........T..........B...
Trần thế em nay chán nửa rồi.
·
Thanh:T........B..............T...
(Muốn làm thằng
cuội, Tản Đà)
Luật thơ
Thông thường,
thơ thất ngôn bát cú có thể làm theo 2 cách thông dụng:
·
Thất ngôn bát cú theo Đường luật: Có quy luật nghiêm khắc về Luật,
Niêm và Vần và có bố cục rõ ràng.
·
Thất ngôn bát cú theo Cổ phong:
Không theo quy luật rõ ràng, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên
vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen
nhau cho dễ đọc.
Còn một cách
khác là theo Hán luật. Những bài thơ thất ngôn bát cú chữ Nôm thường
được gọi là thơ Hàn luật.
Một bài thơ
thất ngôn bát cú Đường luật (hay đúng ra là Hán luật vì là thơ Nôm) tiêu biểu:
"Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan:( Bà Huyện Thanh
Quan ( chữ Nôm : 婆縣青關; 1805 - 1848 )43t, tên thật là Nguyễn Thị Hinh (阮氏馨);
là một nữ sĩ trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam)
(Chú ý
cách gieo vần: Các tiếng cuối
các câu 1, 2, 4, 6, 8 hiệp vần bằng với nhau).
Bước tới đèo
Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen
đá, lá chen hoa
Lom khom dưới
núi, tiều vài chú
Lác đác bên
sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi
miệng cái gia gia
Dừng chân đứng
lại: trời, non, nước
Một mảnh tình
riêng, ta với ta.
Trong đó:
Hai câu đầu tiên (1 và
2) là 2 câu đề dùng để: Mở Đề và Vào Đề (mở bài, giới thiệu...)
Hai câu tiếp theo (3
và 4) là hai câu Thực dùng để :(miêu tả), yêu cầu của 2 câu này
là đối nhau cả về thanh (bằng đối trắc hoặc ngược lại) và về nghĩa (Lom
khom - Lác Đác, Dưới núi - Bên sông, Tiều vài chú - chợ mấy nhà)
Hai câu 5 và 6 là hai câu
Luận (suy luận), yêu cầu cũng đối nhau cả về thanh và nghĩa, tương tự
như hai câu Thực ở trên
Hai câu cuối cùng (7
và 8) là hai câu Kết (kết luận), không yêu cầu đối nhau.
Cách ngắt nhịp:
2/2/3 hoặc 4/3, 3/4
THƯƠNG
VỢ
Tú Xương
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với
một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa,
dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!
Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương (陳濟昌) (1870-1907)
37t – Nam Định.
BA BÀI THƠ
MÙA THU
Nguyễn Khuyến (1835-1909) 74t,
(chữ Hán: 阮勸), tên thật là Nguyễn Thắng (阮勝) , hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835,
tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng
Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam[1]. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Ông có một người bạn tri kỉ tên là Dương Khuê.
Bài thơ: Thu điếu
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Ao thu lạnh lẽo nước
trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ: Thu ẩm
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Năm gian nhà cỏ thấp
le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
Bài thơ: Thu vịnh
Tác giả: Nguyễn Khuyến
Trời thu xanh ngắt
mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào (*).
(*) Đào Tiềm (nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc)
Ngày Xuân Thơ Rượu (Tản Đà)
Tản Đà (chữ Hán: 傘沱) (1889-1939) 50t, tên thật Nguyễn
Khắc Hiếu (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng
của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.
Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
Mạch nước sông Đà tim róc rách
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi
Còn mãi xuân còn rượu với thơ.
Muốn làm thằng Cuội
Tản Đà
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần giới em nay chán nữa rồi.
Cung Quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bàu có bạn, can chi tủi,
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.
Nhận xét
Đăng nhận xét