THƠ CHỮ HÁN

************************

NHỮNG BÀI THƠ CHỮ HÁN YÊU THÍCH

(Dương Ngọc Sáng tổng hợp)

1. Thôi Hiệu

   Hoàng Hạc Lâu

      
      
      
      
      
      
      
    使   

Hoàng Hạc lâu

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch nghĩa: Lầu Hoàng Hạc

Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!

Dịch thơ

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?

Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn.

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

(Tản Đà dịch)

Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu ( 704-754) 50t, một nhà thơ thời nhà Đường, người Biện Châu (Hà Nam TQ).Bài thơ Hoàng Hạc lâu được coi là “thiên cổ tuyệt xướng”.Tương truyền rằng, Lý Bạch khi đến Hoàng Hạc Lâu định làm thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu..

Dịch nghĩa:

Trước mắt thấy cảnh không tả được

Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu.

(Hoàng Hạc lâu là tên một lầu trên hòn đá ở Hoàng Mộc, tỉnh Hồ Bắc).

 Xuân hạ thu đông (Thôi Hiu )

地,
池,
酒,
.

Dịch âm: Xuân hạ thu đông

Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi.

Dịch nghĩa:

Mùa xuân đi thăm nơi cỏ thơm mọc
Mùa hạ thưởng thức ao sen xanh
Mùa thu uống rượu cúc vàng
Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng

********************

2. Lý Bạch  

    Tĩnh dạ tứ

    

    

    

    

Tĩnh dạ tứ

Sàng tiền minh nguyệt quang,

Nghi thị địa thượng sương.

Cử đầu vọng minh nguyệt,

Đê đầu tư cố hương.

Dịch nghĩa: cảm nghĩ trong đêm

Đầu tường trăng sáng soi,

Ngỡ là sương trên mặt đất.

Ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng,

Cúi đầu lại thấy nhớ quê nhà.

Dịch thơ

Ánh trăng chiếu trước giường,

Ngỡ mặt đất mờ sương.

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Cúi đầu nhớ cố hương.

(Nguyễn Khuê dịch)

 

Lý Bạch (701-762) 61t, là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất TQ (ông theo chủ nghĩa lãng mạn). Ông được tán dương là thiên tài thơ ca, cùng với người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm trí trong toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn.

Thuở nhỏ, Lý Bạch thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông đã xa quê và xa mãi. Bởi vậy, cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê nhà.

 ********************

3. Đỗ Phủ - 

    Đăng Nhạc Dương Lâu

    

    

    

    

    

    

    

    

Đăng Nhạc Dương lâu

Tích văn Động Đình thuỷ,

Kim thướng Nhạc Dương lâu.

Ngô Sở đông nam sách,

Càn khôn nhật dạ phù.

Thân bằng vô nhất tự,

Lão bệnh hữu cô chu.

Nhung mã quan san bắc,

Bằng hiên thế tứ lưu.

Dịch nghĩa: lên lầu Nhạc Dương

Xưa nghe nói nước hồ Động Đình,

Nay được lên lầu Nhạc Dương.

Đất Ngô, đất Sở chia tách ở hai phía đông nam,

Trời đất suốt ngày đêm dập dềnh nổi.

Bà con bạn hữu không có một chữ (thư từ qua lại)!

Thân già yếu lênh đênh trong chiếc thuyền côi quạnh.

Quan san phía bắc đang nhộn binh đao,

Tựa hiên, ròng ròng nước mắt, nước mũi!

Dịch thơ

Động Đình nghe tiếng từ xưa,
Mà đây lầu Nhạc bây giờ mới lên.
Đông, Nam, Ngô, Sở tách miền
Mênh mang trời đất ngày đêm bềnh bồng.
Bạn bè một chữ vẫn không,
Thân già ma bệnh chiếc bồng lẻ loi.
Bắc phương giặc giã rối bời,
Bên hiên đứng tựa, sụt sùi lệ sa.

(Tản Đà dịch)

Đỗ Phủ (712-770) 58t, là một nhà thơ nổi bật đời Đường (ông theo chủ nghĩa hiện thực),cùng với Lý bạch được coi là hai nhà thơ vĩ đại nhất lịch sử TQ. Ông tài năng đức độ cao thượng nên được các nhà phê bình TQ gọi là “thi sử” và “thi thánh”.

Lầu Lạc Dương (ở tỉnh Hồ Nam) là lầu tại cửa tây thành Nhạc Châu nhìn xuống hồ Động Đình, phía nam hồ là nước Sở, phía đông là nước Ngô. 

********************

4. Mãn Giác thiền sư - 滿覺禪師

  Cáo tật thị chúng







Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dịch nghĩa: cáo bệnh nói với mọi người
Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa nở.
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt,
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu.
Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết,
Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân.

Tiêu đề do Lê Quý Đôn thêm trong Toàn Việt thi lục.

Dịch thơ
Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.
(Ngô Tất Tố dịch)

Mãn Giác Thiền sư (1052-1096) 44t, học vấn uyên thâm, nổi tiếng trong dòng Thiền Quang Bích, được vua Lý Nhân Tông đặc biệt trọng đãi.

********************

5. Lý Thường Kiệt - 李常傑

  Nam quốc son hà




 
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch nghĩa:
Núi sông nước Nam thì vua Nam ở,
Cương giới đã ghi rành rành ở trong sách trời.
Cớ sao lũ giặc bạo ngược kia dám tới xâm phạm?

Chúng bay hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại vong.

Dịch thơ

Sông núi nước Nam, vua Nam ở,

Rành rành định phận tại sách trời.

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

(Hoàng Xuân Hãn dịch)

Lý Thường Kiệt (1019-1105)86t, tên thật Ngô Tuấn, do có công trạng lớn ông được ban quốc tính, lấy tên tự là Thường Kiệt.

Bài Nam Quốc Sơn Hà xuất hiện trong thời gian Lý Thường Kiệt đánh quân Tống (1077) trên phòng tuyến sông Như Nguyệt, bài thơ được mệnh danh là bài thơ thần.

********************

6. Phạm Ngũ Lão - 范五老

  Thuật hoài

Thuật hoài

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Dịch nghĩa: bày tỏ nỗi lòng

Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.

Dịch thơ

Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

(Trần Trọng Kim dịch)

Phạm Ngũ Lão (1255-1320)65t, là danh tướng nhà Trần, người Ân Thi Hưng Yên, ông góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2 và 3.

********************

 7. Đặng Dung 鄧容

  ( ) Cảm hoài (Thuật hoài)

      

      

      

      

      

      

      

      

Cảm hoài (Thuật hoài)

Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

Trí chúa hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

Dịch nghĩa: Xúc cảm trước nỗi niềm tâm sự

Sự đời dằng dặc mà ta già rồi, biết làm sao đây!

Trời đất mênh mông thu vào trong cuộc rượu hát nghêu ngao.

Khi gặp thời thì anh hàng thịt, người câu cá cũng dễ lập công,

Nếu thời vận đã qua thì anh hùng cũng chỉ uống hận.

Muốn giúp chúa, ôm hoài bão nâng trục trái đất mà xoay chuyển lại,

Mong rửa sạch giáp binh nhưng không có lối để kéo Ngân Hà xuống.

Thù nước chưa báo được, mà đầu thì đã bạc rồi,

Bao lần mang kiếm Long Tuyền ra mài dưới bóng trăng.

Dịch Thơ

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

(Phan Kế Bính dịch)

Đặng Dung (1373 – 1414)41t, là tướng lĩnh nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam.Ông người Can Lộc Hà Tĩnh giúp Trần Quý Khoáng tổ chức lực lượng chiến đấu với quân Minh xâm lược.Trong vòng 5 năm,ông đã nhiều lần vây đánh quân Minh và dành nhiều thắng lợi.Về sau Đặng Dung bị giặc bắt, đem về Yên Kinh TQ, dọc đường nhảy xuống sông tự tử.

********************

  8. Nguyễn Du - 

    Độc Tiểu Thanh ký

西      

      

      

      

      

      

      

      

Độc Tiểu Thanh ký

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch nghĩa: Ghi lại sau khi đọc ghi chép về nàng Tiểu Thanh

Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang,

Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi.

Son phấn có linh hồn chắc phải xót chuyện xảy ra sau khi chết,

Văn chương không có mệnh mà cũng bị liên luỵ, đốt đi còn sót lại một vài bài.

Mối hận cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời.

Ta tự coi như người cùng một hội, một thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng.

Chẳng biết ba trăm năm sau nữa,

Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta ?

Dịch thơ

Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

(Vũ Tam Tập dịch)

Tương truyền Phùng Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc sống khoảng đầu thời Minh, nhiều ý kiến cho rằng nàng là người Dương Châu, con nhà gia thế, tên chữ là Phùng Huyền Huyền. Vốn thông minh nên từ nhỏ nàng đã thông hiểu các môn nghệ thuật cầm kì thi hoạ, lại có phong tư lộng lẫy hơn người. Năm 16 tuổi, nàng được gả làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử nhà gia thế. Vợ cả tính hay ghen lại cay độc, bắt nàng ra sống riêng trên Cô Sơn, gần Tây Hồ (Chiết Giang TQ). Vì đau buồn, nàng sinh bệnh rồi qua đời khi mới tròn mười tám xuân xanh. Nhưng đau khổ muộn phiền được gửi gắm vào thơ nhưng phần lớn bị vợ cả đem đốt hết, may mắn còn một số bài sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt là Phần dư tập.

Thương xót, đồng cảm với số phận của người con gái tài tình mà bạc mệnh, Nguyễn Du viết ra bài thơ này.[Những người phụ nữ có tài có sắc nhưng đường đời truân chuyên bất hạnh cũng là cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du.

Bài thơ được rút từ "Thanh Hiên thi tập" và viết trong một lần Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc. Ông may mắn được đọc lại tác phẩm của Tiểu Thanh( có sách ghi là ông nghe kể lại). Đồng cảm với số phận bất hạnh của nàng, Ông viết bài thơ

Nguyễn Du (1766-1820),54t – quê Nghi Xuân Hà tĩnh, ông là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

********************

9. Phan Bội Châu - 潘佩珠 

  Xuất dương lưu biệt







Xuất dương lưu biệt
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

Dịch nghĩa: Xuất dương lưu biệt
Đã sinh làm kẻ nam nhi thì cũng phải mong có điều lạ,
Há lại để trời đất tự chuyển vần lấy sao!
Giữa khoảng trăm năm này, phải có ta chứ,
Chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?
Non sông đã chết, sống chỉ nhục,
Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!
Mong đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.

Dịch Thơ

Làm trai phải lạ ở trên đời,

Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió.
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Tôn Quang Phiệt dịch)

Bài này Phan Bội Châu làm ngày mùng 2 tháng Giêng năm Ất Tị 1905 khi xuất dương ở cảng Hải Phòng để từ giã các đồng chí để sang Nhật Bản. Về sau ông có chép bài này trong Ngục trung thư.

Phan Bội Châu 潘佩珠 (1867-1940), người Nam Đàn Nghệ An, ông là một danh sĩ và là nhà hoạt động cách mạng thời kỳ Pháp thuộc.

Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc:

Tại vùng Nghệ Tĩnh, người ta đã lưu truyền những câu sấm của Trạng Trình như sau: "Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh" (Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân). Sau phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, câu sấm này được nhắc lại và bàn tán. Lúc đó, khe Bò Đái cũng đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa, do đó người dân càng tin và chờ đợi. Trong một cuộc gặp giữa Phan Bội Châu (lúc này đã bị Pháp bắt và quản thúc) với Đào Duy Anh và nhà nho Trần Lê Hữu, ông Hữu có hỏi: "Thưa cụ Phan, "Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh" chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!" Phan Bội Châu đáp: "Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ta thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác".

********************

  10. Hồ Chí Minh - 

Mộ

     宿 

      

      

      

Mộ

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Dịch nghĩa: Chiều tối

Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,

Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không;

Thiếu nữ xóm núi xay ngô,

Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ.

Dịch thơ

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Nam Trân dịch)

Mộ là bài thơ thứ 30 trong tập “ngục trung nhật ký”.

Nhật ký trong tù (nguyên văn chữ Hán獄中日記 - Hán-Việt: Ngục trung nhật ký) là tập thơ chữ Hán gồm 133 bài[1] theo thể Đường luật do Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng TâyTrung Quốc, từ ngày 29 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943.[2] Ngoài ra, phần cuối văn bản là bút ký đọc sách và bút ký đọc báo ghi chép tóm tắt những thông tin quan trọng về chính trị, quân sự, văn hóa quốc tế và Việt Nam đương thời.

Nhật ký trong tù không chỉ ghi những cảnh sinh hoạt trong tù, mà còn có ý nghĩa tố cáo chế độ nhà tù khắc nghiệt của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Để tránh rắc rối với chính quyền Tưởng Giới Thạch, ở bìa đầu cuốn sổ, Hồ Chí Minh đã cẩn thận viết chệch thời gian sáng tác đi 10 năm: "29/8/1932 – 10/9/1933"; nhưng đến cuối tập thơ, trang 53, trên chữ “hoàn” (hết), Hồ Chí Minh đã dùng cùng một thứ chữ để ghi lại thời gian sáng tác chính xác: "29/8/1942 – 10/9/1943".

Từ năm 1960tác phẩm này được dịch ra tiếng Việt, được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay đã được xuất bản nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp chữ Việt, Hán, Triều Tiên, Nhật Bản... Ngày 1 tháng 10 năm 2012Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định công nhận bảo vật quốc gia cho tác phẩm "Ngục trung Nhật ký".

  Tảo giải 

      
      
      
      

      
      
      
      

Tảo giải

Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san.
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.

Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không.
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.

Dịch nghĩa: Giải đi sớm

Gà gáy một lần, đêm chưa tàn,
Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;
Người đi xa đã cất bước trên đường xa,
Gió thu táp mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.


Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,
Bóng đêm còn rơi rớt sớm đã hết sạch;
Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.

Dịch thơ

Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.

Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đến tàn, quét sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.

(Nam Trân dịch)

     Văn thung mễ thanh

      

      綿

      

      

Văn thung mễ thanh

Mễ bị thung thì, hẩn thống khổ,

Ký thung chi hậu, bạch như miên;

Nhân sinh tại thế dã giá dạng,

Khốn nạn thị nhĩ ngọc thành thiên.

Dịch nghĩa: Nghe tiếng dã gạo

Gạo lúc đang giã, rất đau đớn,

Lúc giã xong rồi, trắng tựa bông;

Người sống trên đời cũng như vậy,

Gian nan là dịp rèn giũa mình thành ngọc.

Dịch thơ

Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông;
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công.

(Văn Trực, Văn phụng dịch)

 

Nhận xét