NHỮNG BÀI THƠ CHỮ HÁN YÊU THÍCH
(Dương Ngọc Sáng tổng hợp)
1. Thôi
Hiệu崔 顥
昔 人 已 乘 黃 鶴 去,
此 地 空 餘 黃 鶴 樓。
黃 鶴 一 去 不 復 返,
白 雲 千 載 空 悠 悠。
晴 川 歷 歷 漢 陽 樹,
芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲。
日 暮 鄉 關 何 處 是,
煙 波 江 上 使 人 愁。
Hoàng Hạc lâu
Tích nhân dĩ thừa
hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa: Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc
vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!
Dịch thơ
Hạc vàng ai
cưỡi đi đâu?
Mà nay
Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng
đi mất từ xưa,
Nghìn
năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán
Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xưa
Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê
hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên
sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Tản Đà dịch)
Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng
của Thôi
Hiệu (崔 顥704-754) 50t, một nhà thơ thời nhà
Đường, người Biện Châu (Hà Nam TQ).Bài thơ Hoàng Hạc lâu được
coi là “thiên cổ tuyệt xướng”.Tương truyền rằng, Lý Bạch khi đến Hoàng
Hạc Lâu định làm thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc
xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất
đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng
đầu..
Dịch nghĩa:
Trước mắt thấy cảnh không
tả được
Vì Thôi Hiệu đã đề thơ
trên đầu.
(Hoàng
Hạc lâu là tên một lầu trên hòn đá ở Hoàng Mộc, tỉnh Hồ Bắc).
春
夏
秋
冬 Xuân hạ thu đông (Thôi
Hiệu崔 顥)
春
遊
芳
草
地,
夏
賞
綠
荷
池,
秋
飲
黃
菊
酒,
冬
吟
白
雪
詩.
Dịch âm: Xuân hạ thu đông
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi.
Dịch nghĩa:
Mùa xuân đi thăm nơi cỏ
thơm mọc
Mùa hạ thưởng thức ao sen xanh
Mùa thu uống rượu cúc vàng
Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng
********************
2. Lý Bạch 李 白
Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh
nguyệt quang,
Nghi thị
địa thượng sương.
Cử đầu vọng
minh nguyệt,
Đê đầu
tư cố hương.
Dịch nghĩa: cảm nghĩ trong đêm
Đầu tường
trăng sáng soi,
Ngỡ là
sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu
nhìn vầng trăng sáng,
Cúi đầu
lại thấy nhớ quê nhà.
Dịch thơ
Ánh trăng chiếu trước giường,
Ngỡ mặt đất mờ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng
sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Nguyễn Khuê dịch)
Lý Bạch
(701-762) 61t, là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất TQ (ông theo chủ nghĩa
lãng mạn). Ông được tán dương là thiên tài thơ ca, cùng với người bạn Đỗ Phủ trở
thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm trí
trong toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn.
Thuở nhỏ,
Lý Bạch thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông đã
xa quê và xa mãi. Bởi vậy, cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê
nhà.
********************
3. Đỗ Phủ - 杜 甫
Đăng Nhạc Dương lâu
Tích văn Động
Đình thuỷ,
Kim thướng
Nhạc Dương lâu.
Ngô Sở đông nam sách,
Càn khôn
nhật dạ phù.
Thân bằng
vô nhất tự,
Lão bệnh
hữu cô chu.
Nhung mã quan san bắc,
Bằng
hiên thế tứ lưu.
Dịch nghĩa: lên lầu Nhạc Dương
Xưa nghe nói
nước hồ Động Đình,
Nay được
lên lầu Nhạc Dương.
Đất Ngô,
đất Sở chia tách ở hai phía đông nam,
Trời đất
suốt ngày đêm dập dềnh nổi.
Bà con bạn
hữu không có một chữ (thư từ qua lại)!
Thân già
yếu lênh đênh trong chiếc thuyền côi quạnh.
Quan san
phía bắc đang nhộn binh đao,
Tựa
hiên, ròng ròng nước mắt, nước mũi!
Dịch
thơ
Động
Đình nghe tiếng từ xưa,
Mà đây lầu Nhạc bây giờ mới lên.
Đông, Nam, Ngô, Sở tách miền
Mênh mang trời đất ngày đêm bềnh bồng.
Bạn bè một chữ vẫn không,
Thân già ma bệnh chiếc bồng lẻ loi.
Bắc phương giặc giã rối bời,
Bên hiên đứng tựa, sụt sùi lệ sa.
(Tản Đà
dịch)
Đỗ Phủ (712-770) 58t, là một nhà thơ nổi bật đời Đường
(ông theo chủ nghĩa hiện thực),cùng với Lý bạch được coi là hai nhà thơ vĩ đại
nhất lịch sử TQ. Ông tài năng đức độ cao thượng nên được các nhà phê bình TQ gọi
là “thi sử” và “thi thánh”.
Lầu Lạc Dương (ở tỉnh Hồ Nam) là lầu tại cửa tây thành
Nhạc Châu nhìn xuống hồ Động Đình, phía nam hồ là nước Sở, phía đông là nước
Ngô.
********************
春到百花開。
事逐眼前過,
老從頭上來。
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅。
Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch nghĩa: cáo bệnh nói với mọi người
Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa nở.
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt,
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu.
Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết,
Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân.
Tiêu đề do Lê Quý Đôn thêm trong Toàn Việt thi lục.
Dịch thơ
Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.
(Ngô Tất Tố dịch)
Mãn Giác Thiền sư (1052-1096) 44t, học vấn uyên thâm, nổi tiếng trong dòng Thiền Quang Bích, được vua Lý Nhân Tông đặc biệt trọng đãi.
南國山河南帝居,********************
5. Lý Thường Kiệt - 李常傑
截然定分在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虛。
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa:
Núi sông nước Nam thì vua Nam ở,
Cương giới đã ghi rành rành ở trong sách trời.
Cớ sao lũ giặc bạo ngược kia dám tới xâm phạm?
Chúng bay hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại vong.
Dịch thơ
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Hoàng Xuân Hãn dịch)
Lý Thường Kiệt (1019-1105)86t, tên thật Ngô Tuấn, do có công
trạng lớn ông được ban quốc tính, lấy tên tự là Thường Kiệt.
Bài Nam Quốc Sơn Hà xuất hiện trong thời gian Lý Thường Kiệt
đánh quân Tống (1077) trên phòng tuyến sông Như Nguyệt, bài thơ được mệnh danh
là bài thơ thần.
********************
6. Phạm Ngũ Lão - 范五老
述懷 Thuật hoài
Thuật hoài
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch nghĩa: bày tỏ nỗi lòng
Dịch
thơ
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
(Trần Trọng Kim dịch)
Phạm Ngũ Lão (1255-1320)65t, là danh tướng nhà Trần, người Ân
Thi Hưng Yên, ông góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ
2 và 3.
********************
7.
Đặng
Dung 鄧容
感 懷 (述 懷) Cảm hoài (Thuật hoài)
Cảm hoài (Thuật hoài)
Thế sự du du
nại lão hà,
Vô cùng
thiên địa nhập hàm ca.
Thời
lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ
anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa
hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù
vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Dịch nghĩa: Xúc
cảm trước nỗi niềm tâm sự
Sự đời dằng dặc
mà ta già rồi, biết làm sao đây!
Trời đất
mênh mông thu vào trong cuộc rượu hát nghêu ngao.
Khi gặp
thời thì anh hàng thịt, người câu cá cũng dễ lập công,
Nếu thời
vận đã qua thì anh hùng cũng chỉ uống hận.
Muốn
giúp chúa, ôm hoài bão nâng trục trái đất mà xoay chuyển lại,
Mong rửa
sạch giáp binh nhưng không có lối để kéo Ngân Hà xuống.
Thù nước
chưa báo được, mà đầu thì đã bạc rồi,
Bao lần
mang kiếm Long Tuyền ra mài dưới bóng trăng.
Dịch Thơ
Việc đời
bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
(Phan Kế
Bính dịch)
Đặng
Dung (1373 – 1414)41t, là tướng lĩnh nhà
Hậu Trần trong lịch
sử Việt Nam.Ông người Can Lộc Hà Tĩnh giúp Trần Quý
Khoáng tổ chức lực lượng chiến đấu với quân Minh xâm lược.Trong vòng 5 năm,ông
đã nhiều lần vây đánh quân Minh và dành nhiều thắng lợi.Về sau Đặng Dung bị giặc
bắt, đem về Yên Kinh TQ, dọc đường nhảy xuống sông tự tử.
********************
Độc Tiểu Thanh ký
Tây Hồ hoa uyển
tẫn thành khư,
Độc điếu
song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn
hữu thần liên tử hậu,
Văn
chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận
sự thiên nan vấn,
Phong vận
kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri
tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa:
Ghi lại sau khi đọc ghi chép về nàng Tiểu Thanh
Vườn hoa cạnh
Tây Hồ đã thành bãi hoang,
Ta chỉ
viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi.
Son phấn
có linh hồn chắc phải xót chuyện xảy ra sau khi chết,
Văn
chương không có mệnh mà cũng bị liên luỵ, đốt đi còn sót lại một vài bài.
Mối hận
cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời.
Ta tự
coi như người cùng một hội, một thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc
phải nỗi oan lạ lùng.
Chẳng biết
ba trăm năm sau nữa,
Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta ?
Dịch thơ
Hồ Tây cảnh
đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam
Tập dịch)
Tương truyền Phùng
Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc sống khoảng đầu thời Minh,
nhiều ý kiến cho rằng nàng là người Dương Châu, con nhà gia thế, tên chữ là
Phùng Huyền Huyền. Vốn thông minh nên từ nhỏ nàng đã thông hiểu các môn nghệ
thuật cầm kì thi hoạ, lại có phong tư lộng lẫy hơn người. Năm 16 tuổi, nàng được
gả làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử nhà gia thế. Vợ cả tính hay ghen lại
cay độc, bắt nàng ra sống riêng trên Cô Sơn, gần Tây Hồ (Chiết Giang TQ). Vì
đau buồn, nàng sinh bệnh rồi qua đời khi mới tròn mười tám xuân xanh. Nhưng đau
khổ muộn phiền được gửi gắm vào thơ nhưng phần lớn bị vợ cả đem đốt hết, may mắn
còn một số bài sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt là Phần dư tập.
Thương xót, đồng
cảm với số phận của người con gái tài tình mà bạc mệnh, Nguyễn Du viết ra bài
thơ này.[Những người phụ nữ có tài
có sắc nhưng đường đời truân chuyên bất hạnh cũng là cảm hứng lớn trong sáng
tác của Nguyễn Du.
Bài thơ được
rút từ "Thanh Hiên thi tập" và viết trong một lần Nguyễn Du đi sứ
Trung Quốc. Ông may mắn được đọc lại tác phẩm của Tiểu Thanh( có sách ghi là
ông nghe kể lại). Đồng cảm với số phận bất hạnh của nàng, Ông viết bài thơ
Nguyễn
Du (1766-1820),54t – quê Nghi Xuân Hà tĩnh, ông là đại thi hào dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới.
********************
9. Phan Bội Châu
- 潘佩珠
肯許乾坤自轉移。
於百年中須有我,
起千載後更無誰。
江山死矣生圖汭,
賢聖遼然誦亦癡。
願逐長風東海去,
Xuất dương lưu biệt
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Dịch nghĩa: Xuất dương lưu biệt
Đã sinh làm kẻ nam nhi thì cũng phải mong có điều lạ,
Há lại để trời đất tự chuyển vần lấy sao!
Giữa khoảng trăm năm này, phải có ta chứ,
Chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?
Non sông đã chết, sống chỉ nhục,
Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!
Mong đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.
Dịch Thơ
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió.
(Tôn Quang Phiệt dịch)
Bài này Phan Bội Châu làm ngày mùng 2 tháng Giêng năm Ất Tị 1905 khi xuất dương ở cảng Hải Phòng để từ giã các đồng chí để sang Nhật Bản. Về sau ông có chép bài này trong Ngục trung thư.
Phan Bội Châu 潘佩珠 (1867-1940), người Nam Đàn Nghệ An, ông là một danh sĩ và
là nhà hoạt động cách mạng thời kỳ Pháp thuộc.
Phan
Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc:
Tại
vùng Nghệ Tĩnh, người ta đã lưu truyền những câu sấm của Trạng Trình như sau: "Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/
Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh" (Khi núi Đụn chẻ đôi,
khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ
sinh ra bậc thánh nhân). Sau phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, câu sấm này được nhắc lại và
bàn tán. Lúc đó, khe Bò Đái cũng
đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa, do đó người dân
càng tin và chờ đợi. Trong một cuộc gặp giữa Phan Bội Châu (lúc này đã bị Pháp
bắt và quản thúc) với Đào Duy Anh và
nhà nho Trần Lê Hữu, ông Hữu có hỏi: "Thưa cụ Phan, "Bò Đái thất thanh,
Nam Đàn sinh thánh" chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người
khác!" Phan Bội Châu đáp: "Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ta thường
có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu
Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai
khác".
********************
暮 Mộ
Mộ
Quyện điểu
quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn
mạn độ thiên không.
Sơn thôn
thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc
ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch nghĩa: Chiều
tối
Chim mỏi về rừng
tìm cây ngủ,
Chòm mây
lẻ trôi lững lờ trên tầng không;
Thiếu nữ
xóm núi xay ngô,
Ngô xay
vừa xong, lò than đã đỏ.
Dịch thơ
Chim mỏi về rừng tìm chốn
ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
(Nam Trân dịch)
Mộ
là bài thơ thứ 30 trong tập “ngục trung nhật ký”.
Nhật ký trong tù (nguyên văn chữ Hán: 獄中日記 - Hán-Việt: Ngục trung nhật
ký) là tập thơ chữ Hán gồm 133 bài[1] theo thể Đường
luật do Hồ
Chí Minh sáng tác trong thời gian bị chính quyền Tưởng
Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây, Trung Quốc, từ ngày 29 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943.[2] Ngoài ra, phần cuối
văn bản là bút ký đọc sách và bút ký đọc báo ghi chép tóm tắt những thông tin
quan trọng về chính trị, quân sự, văn hóa quốc tế và Việt Nam đương thời.
Nhật ký trong
tù không chỉ ghi những cảnh sinh hoạt trong tù, mà còn có ý nghĩa tố cáo
chế độ nhà tù khắc nghiệt của chính quyền Tưởng
Giới Thạch. Để tránh rắc rối với chính quyền Tưởng Giới Thạch, ở
bìa đầu cuốn sổ, Hồ
Chí Minh đã cẩn thận viết chệch thời gian sáng tác đi 10
năm: "29/8/1932 – 10/9/1933"; nhưng đến cuối tập thơ, trang 53, trên
chữ “hoàn” (hết), Hồ Chí Minh đã dùng cùng một thứ chữ để ghi lại thời gian
sáng tác chính xác: "29/8/1942 – 10/9/1943".
Từ năm 1960, tác
phẩm này được dịch ra tiếng
Việt, được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con
người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay đã được xuất bản
nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước
trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp chữ Việt, Hán, Triều Tiên,
Nhật Bản... Ngày 1 tháng 10 năm 2012, Thủ
tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định
công nhận bảo vật quốc gia cho tác phẩm "Ngục trung Nhật ký".
一 次 雞 啼 夜 未 闌,
群 星 擁 月 上 秋 山。
征 人 已 在 征 途 上,
迎 面 秋 風 陣 陣 寒。
東 方 白 色 已 成 紅,
幽 暗 殘 餘 早 一 空。
暖 氣 包 羅 全 宇 宙,
行 人 詩 興 忽 加 濃。
Tảo giải
Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san.
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không.
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.
Dịch nghĩa: Giải đi sớm
Gà gáy một lần, đêm chưa
tàn,
Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;
Người đi xa đã cất bước trên đường xa,
Gió thu táp mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.
Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,
Bóng đêm còn rơi rớt sớm đã hết sạch;
Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.
Dịch thơ
Gà gáy một
lần đêm chửa tan,
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đến tàn, quét sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.
(Nam
Trân dịch)
Văn thung mễ thanh
Mễ bị thung
thì, hẩn thống khổ,
Ký thung
chi hậu, bạch như miên;
Nhân
sinh tại thế dã giá dạng,
Khốn nạn
thị nhĩ ngọc thành thiên.
Dịch nghĩa: Nghe tiếng
dã gạo
Gạo lúc đang
giã, rất đau đớn,
Lúc giã
xong rồi, trắng tựa bông;
Người sống
trên đời cũng như vậy,
Gian nan
là dịp rèn giũa mình thành ngọc.
Dịch
thơ
Gạo đem
vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông;
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công.
(Văn Trực,
Văn phụng dịch)
Nhận xét
Đăng nhận xét