Các bạn thân mến !
Có khi nào các bạn cầm 1 lá số trên tay mà tự hỏi “ lá
số đẹp thế này mà sao thực tế lại xấu vậy, hoặc lá số chẳng có gì hay mà sao người
ta lại thành công và giàu có vậy ? Tử vi có gì đó sai sai hay do mình chưa khám
phá hết ?” Hy vọng sau khi xem xong những nội dung mà mình chia sẻ dưới đây sẽ
giúp ích phần nào cho các bạn.
Người
học Tử Vi cần hiểu lẽ "quá hư
cùng biến" của dịch.
Quá
Hư: Cái tốt quá độ trở thành hư hỏng.
Cùng
Biến: Đang rất tốt nếu biến xấu thành rất xấu, đang rất xấu nếu biến tốt thành
rất tốt.
(
PHẦN 1 )
l Trường
hợp Kình Dương cư ngọ lưu ý tuổi Bính, Mậu.
Tuổi Bính, Mậu có Kình Dương ở Ngọ. Kình tượng
thanh gươm, Ngọ tượng con ngựa nên gọi là cách "mã đầu đới kiếm". Ngọ
là nơi hãm địa của Kình Dương, lại thuộc hỏa khắc tính kim của Kình nên cách
này hết sức nguy hiểm. Phú có câu "Mã đầu đới kiếm phi yểu chiết nhi hình
thương" nghĩa là có cách mã đầu đới kiếm cư mệnh không chết sớm cũng bị
thương tật.
Nhưng vì lý "cùng tắc biến" lại
có 2 kỳ cách như tiếp theo đây.
Theo lý "cùng tắc biến" của dịch
một hoàn cảnh cực xấu biến thành tốt sẽ trở thành cực tốt.
-
Mệnh
có Kình Dương cư Ngọ (hãm địa), cùng cung Thiên Đồng Thái Âm (hãm địa), tuổi
Bính Thiên Đồng hoá Lộc có Thiên Cơ hóa Quyền tam hợp (đắc Lộc Quyền), tuổi Mậu
Thái Âm hoá Quyền có Thiên Cơ hóa Kỵ tam hợp (đắc Quyền Kỵ) là hai kỳ cách tốt
đẹp "mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương", tạo nên sự nghiệp trong cảnh
dầu sôi lửa bỏng.
-
Kình
Dương cư Ngọ (hãm địa) cùng cung với Tham Lang (hãm địa).
Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc, cũng là kỳ cách "mã đầu đới kiếm trấn ngự biên
cương". (Trái lại tuổi Bính mà gặp cách này là tai họa trùng trùng vì
không được cát hóa ).
Chú ý: Tuổi Bính Thiên Cơ cư Ngọ ( có hoá
Quyền) không hợp cách vì Thiên Cơ không hãm ở Ngọ, nếu gặp Kình Dương thì
"phi yểu chiết nhi hình thương".
l Các sao nhóm tĩnh
(Cự Cơ Nguyệt Đồng Lương) hợp với cảnh an bình, gặp nhiều sát tinh chắc chắn sẽ
không tốt.
l Chính
tinh hãm địa rất cần Tuần Triệt, nếu không có Tuần Triệt
thì rất cần Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, trường hợp Liêm Tham hãm tại tỵ hợi không
có Tuần Triệt rất cần Hóa Kỵ ( Có quan điểm đề cao vai trò của Tứ Hóa còn cho rằng
chính tinh hãm gặp sao Hóa còn hóa mạnh hơn, tức tốt hơn cả trường hợp chính
tinh miếu vượng gặp sao Hóa. Tuy nhiên điều này còn tùy vào trường hợp cụ thể mới
có thể quả quyết được.)
l So
sánh chính cung và các cung hợp chiếu.
Trường hợp 1: Chính cung đa số sao hiền
(cát tinh), nhưng các cung hợp chiếu đa số là sao hiểm (sát bại tinh) ví như
người quân tử gặp cảnh nguy nan. Dù đắc cách cũng rất mong manh, dễ bị phá hỏng.
Ví như các sao ở hai cung Mệnh và Thân đa số
là cát tinh, nhưng các sao ở các cung hợp chiếu – nhất là cung xung chiếu – đa
số là sát, bại tinh xấu xa ; nghĩa là mình tốt mà hoàn cảnh không thuận, dễ gặp
xui xẻo, tai họa.
Trường hợp 2 : Chính cung đa số là sao hiểm
(sát bại tinh), nhưng các cung hợp chiếu đa số là sao hiền (cát tinh), ví như kẻ
tiểu nhân gặp cảnh đắc chí, mưu sự bất chính dễ thành.
Ví như Sao ở hai cung Mệnh và Thân đa số là
sát, bại tinh xấu xa, nhưng sao ở các cung hợp chiếu – nhất là cung xung chiếu
– đa số là cát tinh; nghĩa là mình bản tính xấu mà hoàn cảnh thuật lợi, nên dễ
thành công, lại hay đóng kịch là người tốt.
l Cơ
Lương gặp Hình Riêu Lộc Quang Quý.
Cơ Lương là hai sao tĩnh gặp sát tinh Thiên
Hình hết sức nguy hiểm, khó tránh khỏi tai họa. Nhưng Hình không quá ác, có thể
giải bằng Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng), hoặc hóa Lộc (thuận lợi, may mắn). Nên
nếu trong thế tam hợp có Lộc Hình Riêu thì Hình ứng với hành động quyết liệt
nhưng xây dựng. Riêu ứng với thuốc đắng giã tật, Cơ Lương (không nhất thiết đồng
cung) bản chất thích phục vụ nên hợp với nghề y dược; thêm Quang Quý (được người
ưa thích) theo đuổi y học có cơ thành tựu lớn. Nếu Cơ hoặc Lương ở Sửu Mùi, có
Tả Hữu giáp hai bên lại càng hoàn mỹ .
Các chính tinh khác gặp Hình Riêu Lộc Quang
Quý cũng phù hợp ít nhiều với ngành y dược.
Xác suất càng cao nếu cư cung Quan Lộc hơn ở
cung Mệnh.
l Tử
vi Phá quân tại sửu mùi.
Tử Phá Sửu Mùi là cách chính tà tranh thắng
nên cần Tả Hữu phò tá Tử Vi để Tử Vi đắc thế, chế ngự bớt tính phá hoại của Phá
Quân. Trái lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình thì Hình tất sẽ về cùng phe
với Phá Quân, buộc Tử Vi lùi bước. Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng) giảm được tính
sát của Hình Phá; hóa Lộc (may mắn) giúp
Phá Quân thành tựu. Do đó nếu Phá Quân hóa Lộc hoặc Tử Phá được Lộc Tồn hội họp
gặp Thiên Hình lại là một kỳ cách hết sức tốt đẹp, ví như kẻ anh hùng có bản
lãnh đổi thay thời cuộc, tạo nên sự nghiệp phi thường trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.
Lý tưởng nhất là Tử Phá có Tả Hữu giáp hai
bên. Gồm có Tử Phá cư Sửu sinh tháng 9 (Hình tam hợp), tháng 11 (Thiên Hình
xung chiếu); hoặc Tử Phá cư Mùi sinh tháng 3 (Thiên Hình tam hợp), tháng 5 (Thiên
Hình xung chiếu). Bốn cách này Thiên Hình hội họp mà không cư cùng Tử Phá nên
giảm bớt sát khí, đỡ lo tai họa.
l TỬ VI không có Tả Hữu thì rất cần Hóa Quyền.
Tử Vi ở cung dương (thế tam hợp Phủ Tướng)
thiếu Tả Hữu là cách "cô quân", ví như vua không có cận thần, thiếu hẳn
hiệu quả; gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình lại càng bất lợi (tuy vậy không
nguy hiểm vì Tử Vi có uy lực rất mạnh mẽ, Thiên Hình là sao sát nhưng có tính
thuần dương nên thuộc chính phái, không chống lại Tử Vi). Nhưng nếu Tử Vi có
hóa Quyền hội họp thì uy lực rất mạnh mẽ, khắc phục biến Hình thành phù tá đắc
lực, là một kỳ cách.
l Tử
vi, Thiên phủ, Thái Dương thủ mệnh lưu ý có Kình Dương đồng cung :
Tử, Phủ, Nhật là ba đế tinh mạnh mẽ, có bản
lãnh biến Kình Dương (cùng cung) thành của mình, tức là vốn thông minh lại càng
khôn khéo. Nếu mệnh cư ở Thìn Tuất Sửu Mùi tất Kình Dương nhập miếu, theo đuổi
kinh doanh dễ thành tựu lớn.
Chú ý: Thái Âm cũng là đế tinh nhưng tương
đối yếu, không vận dụng nổi Kình Dương nên chỉ có cách này khi đồng cư với Thái
Dương ở Sửu Mùi.
l TỬ
PHỦ VŨ TƯỚNG gặp KHÔNG VONG sẽ tiềm ẩn nhiều hung hiểm.
Tử Phủ Vũ Tướng ứng với cộng hưởng giữa hai
nhóm Tử Liêm Vũ và Phủ Tướng nên rất tốt đẹp, nhưng nếu gặp Không vong (Tuần
Triệt hoặc Thiên Không, Địa Không đúng vị đóng đồng cung) lại biến thành xấu,
dù nhiều cách tốt khác hội họp đi nữa cũng gặp nhiều hung hiểm.
l Tử
Vi tại mão dậu.
Đây là cách kém nhất của Tử Vi (hội họp với
Tham Lang thay vì Phủ Tướng), ứng với sự sa đọa, dâm đãng, nếu gặp Địa Kiếp hoặc
các sao Không vong cùng cung lại là vô vi thoát tục.
l Liêm
trinh hãm gặp Bạch hổ
Liêm Trinh ứng với quái Li rực rỡ quá độ
nên tốt thì chủ công danh, xấu biến thành tai họa. Liêm Trinh cùng cung Phá
Quân hoặc Tham Lang thì lạc hãm nên vô lực. Bạch Hổ tượng kẻ nhất định dùng vũ
lực để bảo vệ quyền lợi của mình. Vô lực mà đòi dùng lực tất bị nguy hiểm, tai
ương. Nên Liêm Trinh hãm địa đồng cung với Bạch Hổ khó tránh tai nạn.
Liêm Trinh độc thủ Dần Thân được hội họp với
Phủ Tướng nhưng lại bị Tham Lang xung chiếu, đồng cung Bạch Hổ cũng nguy hiểm
nhưng đỡ hơn Liêm Phá, Liêm Tham. Có sao tốt giải cứu thì không đáng lo ngại.
Chú ý: Có Thanh Long hội họp thì thành cách
"Thanh Long Bạch Hổ". Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa
nữa mà biến thành một yếu tố thành công.
l LIÊM PHÁ và LIÊM THAM gặp XƯƠNG KHÚC rất
hung họa.
Liêm Trinh ứng với quẻ Li, ví như cô tiểu
thư đài các, có Khúc Xương càng thêm vẻ kiêu sa. Nhưng cùng cung Phá Tham là lạc
hãm, như cảnh thân gái dặm trường, vẻ đài các kiêu sa càng khiến kẻ bất lương
dòm ngó, biến thành tai họa.
l Mệnh hay hạn có VŨ KHÚC ngộ XƯƠNG, ĐÀ, LINH.
Vũ Khúc ở cung dương (hoặc gặp Tham Lang ở
Sửu Mùi ) Văn Xương tương đối đẹp, nhưng vì cả hai sao cùng thuộc Kim có tính
sát nên hàm chứa nguy hiểm. Đà Linh là hai sao sát có tính âm hàn (Đà là sao âm
của cặp Kình Đà, Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh). Đà thuộc Kim, Linh thuộc Hỏa
nhưng có mang thêm tính Kim. Cái đẹp mong manh gặp tính sát âm hàn đã xấu, cả bốn
sao lại đều mang tính sát của Kim nên trở thành cực xấu, ứng với nguy hiểm hoặc
khó khăn to lớn.
Ở cung âm Vũ Phá, Vũ Tham, Vũ Sát vốn đã
không hợp với Xương Khúc nên càng xấu hơn nữa.
(Phú để lại có câu "Linh Xương Đà Vũ hạn
đáo đầu hà" nghĩa của câu này là đến hạn Linh Xương Đà Vũ tất gieo mình xuống
sông tự tử, ý nói là quá nhiều khó khăn không thể nào giải quyết nổi, đành tự tử
cho xong).
(
PHẦN 2 )
l VŨ
PHỦ gặp KIẾP KÌNH
Vũ
Phủ Tí Ngọ là một cộng hưởng vô cùng tốt đẹp vì cả hai sao đều là tài tinh, Phủ
lại là đế tinh nên có uy lực mạnh mẽ. Kiếp Kình là hai sát tinh ác độc, Phủ bản
chất dung hòa nên đều thu dụng làm của mình, trở thành cách độc ác nhưng quý hiển.
(Có cách này độc ác thì khá giả, hợp cách gian thương tạo ra tài sản trên máu mủ
thiên hạ. Ngược lại quyết giữ thiện tâm thì như người tốt đồng hành với bọn bất
lương, tất phải chịu một số oan nghiệt rồi mới tốt đẹp).
Vũ không được Phủ cùng cung thì uy lực kém
hơn. Đồng cách Kiếp Kình, thêm nhiều sao tốt hội họp cũng ác độc nhưng khó
thành công, thêm nhiều sao xấu hội họp tất vì tiền bạc mà mang họa vào thân.
l THIÊN TƯỚNG tại cung Dậu.
Thiên Tướng là quý tinh nên cư mệnh không
phải lo cơm áo, nhưng bản chất nhu nhược nên không vượt nổi tính "bại"
của cung Dậu. Tướng kém cỏi nhất ở Dậu (kém hơn Mão vì hai đế tinh Âm Dương cư ở
Tử Tức và Huynh Đệ đều hãm địa), lại bị Liêm Tham Phá hãm địa ở Mão xung chiếu,
nên gặp rất nhiều phiền toái rắc rối. Mệnh cung của nhiều cô gái giang hồ nhan
sắc được khách làng chơi chu cấp như vợ bé có cách này.
Cũng
là Thiên Tướng cư Dậu, tuổi Ngọ có Hồng Loan cùng cung nên thanh sạch, Đào Hỉ ở
Mão xung chiếu, thành thử đắc cách tam minh Đào Hồng Hỉ, ví như kẻ lạc giữa bụi
trần nhơ nhuốc mà tâm tư sáng suốt, bình lặng như không, ngộ ra mọi sắc hương đều
là giả dối.
Thiên Tướng cùng cung Hồng Loan tại Mão luận
tương tự nhưng xác suất thấp hơn.
Luật chung về Thiên Tướng cho tất cả mọi
cung: Thiên Tướng ứng với hình thức bề ngoài, nếu hội họp với cả hai loại sao sắc
(Đào Hồng Hỉ) và các sao Không (Tuần Triệt Thiên Không Địa Không ) lại biến
thành cảnh sắc sắc không không, thường có duyên với cảnh tu hành ).
l PHỦ TƯỚNG gặp TUẦN TRIỆT
Phủ Tướng là hai quý tinh có tính dung hòa
nên nói chung khi độc thủ không ngại tứ sát Kình Đà Hỏa Linh lắm. Cư mệnh vẫn dễ
phú quý, chỉ tăng thêm tính gian xảo. Thế nhưng gặp Tuần Triệt coi như mất hết. Cách tốt bao
nhiêu cũng thành vô dụng. Gặp Thiên Không, Địa Không đúng vị không vong cũng luận
như trên.
Chú ý: Cách này ứng với khi Phủ Tướng ở
cung âm. Ở cung dương là cách Tử Phủ Vũ Tướng ngộ Không Vong tiềm ẩn nhiều hung
hiểm đã kể ở trên.
l PHỦ
TƯỚNG gặp HÌNH, HAO thành ra PHÁ CÁCH
Thiên Tướng là sao yếu đuối nên có Tả Hữu
phù tá thì rất tốt đẹp, ngược lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình đồng
cung thì hết sức nguy hiểm. Thiên Hình là sát tinh nên Thiên Tướng khó thoát khỏi
tai họa. Thiên Phủ cũng cần Tả Hữu và kỵ Thiên Hình, nhưng vì là đế tinh có uy
lực mạnh nên gặp Thiên Hình không đáng lo ngại. Nhưng Phủ là tài tinh, cùng
cung Đại Tiểu Hao là phá cách, ứng với sự túng thiếu. Đại Tiểu Hao đắc địa đi nữa
cũng chỉ có những thoáng huy hoàng mà thôi.
l PHÁ
QUÂN gặp XƯƠNG KHÚC,hoặc gặp KIẾP KHÔNG.
Phá Quân bản chất phá hoại, Xương Khúc lại
nho nhã dung hòa, nên Phá Quân có Xương Khúc phò tá không thể làm nên việc lớn (
trừ trường hợp có thêm sao của cả hai nhóm Tả Hữu, Khôi Việt hội họp). Phú có
câu "Phá Quân Xương Khúc vi bần nho". Ngược lại Phá gặp Kiếp Không là
hai sao chuyên phá hoại thì đúng là chủ gặp tớ, dễ thành đại sự.
l PHÁ QUÂN gặp Song Hao thì BẦN CÙNG, gặp
Song Lộc thì ĐẠI PHÁT
Đại Tiểu Hao là hai sao thiếu chí hướng,
khiến Phá Quân không thể chuyên nhất phát huy ưu điểm xung phá của mình. Đại Tiểu
Hao bản chất lại là phí phạm, hư hao; dễ đẩy Phá Quân vào cảnh bần cùng. Ngược
lại Phá Quân gặp Lộc Tồn (cẩn trọng nhưng khá giả) hoặc hóa Lộc (thuận lợi, may
mắn ) tất đại phát.
Chú ý: Lộc và Không Kiếp cùng phù hợp Phá
Quân nên gặp Phá Quân thay vì phá hoại nhau lại cùng giúp Phá Quân trở thành tốt
đẹp.
l THẤT
SÁT gặp Thiên Hình, Kình Dương.
Thất Sát có Tả Hữu phù tá thì tốt đẹp.
Nhưng mang tính sát nên đồng thời phù hợp với đối thủ của Tả Hữu là Thiên Hình;
do đó gặp Thiên Hình không bất lợi, chỉ thể hiện một chiều hướng khác. Thất Sát
miếu vượng thì thanh liêm, nghiêm khắc, hãm thì tàn nhẫn.
Sao Sát phù hợp nhất với tính dũng cảm của
Thất Sát là Kình Dương, tức sao dương của cặp Kình Đà, Thất Sát gặp Kình Dương
như chủ can đảm gặp tớ liều lĩnh, chỉ cần một trong hai sao đắc vị là có thể
thành công to lớn. Nhưng đây là một kết hợp đầy sát khí nên rất nguy hiểm, bạo
phát thường đi liền với bạo tàn, nhất là một trong hai sao hãm địa thì rất khó
lòng thoát khỏi tai họa. (Hai sao cùng hãm thành cảnh "kẻ dùng gươm chết
vì gươm", chính là đại họa).
Thất Sát gặp Đà La ý nghĩa tương tự Kình
Dương, nhưng mức thành đạt và xác suất thành đạt thấp hơn, vì Đà La là sao âm
phát triển không nhanh bằng Kình Dương là sao dương.
l Đại
tiểu hạn trùng phùng tại Ngọ có Sát Kình.
Kình Dương cư Ngọ là cách "Mã đầu đới
kiếm". Ngọ thuộc Hỏa, Kình thuộc Kim, Hỏa khắc Kim nên đây là vị hãm địa xấu
nhất của Kình Dương. Thất Sát ở Ngọ miếu địa cùng cung với Kình tất có thành tựu,
nhưng khó lòng tránh khỏi tai họa khủng khiếp; hợp với số kẻ làm tướng chết oanh
liệt ở trận tiền.
Phá Quân cư Ngọ (miếu địa) đồng cung Kình
Dương cũng luận tương tự.
l LIÊM
trinh THAM lang là hai sao đào hoa, nếu hội hợp nhiều sát, bai, dâm tinh dễ
phát sinh đại họa.
Tham Lang ứng với quẻ Tốn, tượng là con gái
trưởng, nhu nhược thành thử dễ bị cuốn hút vào chuyện trăng hoa, nên gọi là
"chính đào hoa". Liêm Trinh ứng với quẻ Li, tượng là con gái thứ,
xinh đẹp kiêu sa. Nhan sắc là lợi điểm mà cũng có thể là tai họa, nên gọi là
"thứ đào hoa".
Sát tinh hoặc phá hoại hoặc cuốn hút người
ta vào đường phá hoại. Bại tinh gây ra bất hạnh. Dâm tinh, tức các cách đào hoa
thiếu đứng đắn, gây sự sa ngã. Liêm trinh và Tham lang bản chất đã mang sẵn
tính đào hoa gặp nhiều sao của các nhóm này tụ tập rất nguy hiểm, cần đề phòng
tai họa hoặc trụy lạc.
l THAM
LINH thì có THÀNH TỰU, THAM HỔ thì gặp TAI ƯƠNG
Hổ là một bại tinh bản tính quyết liệt, nên
Tham Lang hãm địa thiếu uy lực gặp Hổ đồng cung khó tránh khỏi tai nạn, miếu vượng
cũng phiền toái, tương tự như trường hợp Liêm Trinh gặp Hổ.
Chú ý: Có Thanh Long hội họp thì thành cách
"Thanh Long Bạch Hổ ". Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa
nữa mà biến thành một yếu tố thành công.
Tham Lang là một trong bộ ba Sát Phá Tham tất
phải có sát tinh phù hợp. Lục sát có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp. Ta đã biết
Phá Quân hợp Không Kiếp, Thất Sát hợp Kình Đà; suy ra Tham Lang hợp Hỏa Linh.
Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh, ví như ngọn
lửa âm thầm, giúp Tham Lang thuộc mộc được nung nóng, thành tựu nhưng không phải
là đột phát.
l THAM HỎA ANH HÙNG, THAM XƯƠNG NHIỄU SỰ
Hỏa Tinh thuộc dương, ví như ngọn lửa lớn
khiến Tham Lang thuộc mộc cháy bùng, nên Tham Hỏa là cách anh hùng, ứng với sự
thành công đột phát.
Xương là sao dương của cặp Xương Khúc, mang
tính đào hoa nhưng đồng thời thuộc kim khắc hành mộc của Tham. Tham Lang mang
tính đào hoa gặp Xương ví như cảnh "bỏ thì thương vương thì tội" chẳng
ra gì, mập mờ rất phiền toái. Tham Xương cư Mệnh do đó là kẻ hay gây rắc rối
cho đời. Tệ nhất là có đủ bộ Xương Khúc hội họp; phú có câu "Tham Lang
Xương Khúc chính sự phiền hà".
Chú ý: Nếu có nhiều cát tinh như Tả Hữu
Khôi Việt Lộc Tồn tam Hóa, hoặc sao phù tá đúng bộ là Linh Hỏa thì giải được,
không kể là xấu nữa.
l Luận ÂM DƯƠNG cần chú ý xem có gặp XƯƠNG
KHÚC, TAM MINH hay gặp KIẾP KHÔNG, TAM ÁM.
Muốn luận tốt xấu cho cặp đế tinh Âm Dương
cần nhất là xét bốn sao Xương Khúc và Không Kiếp. Âm Dương hội họp với Xương
Khúc là đắc cách dễ phát triển tiềm năng, với Không Kiếp là phá cách, nhẹ sinh
ra cảnh đầu voi đuôi chuột, nặng thì nhiều tai họa.
Âm Dương tượng trưng ánh sáng của mặt trăng
mặt trời nên gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ (tượng vẻ tươi sáng của một cô gái
xuân thì) rất đẹp đẽ. Trái lại gặp bộ tam ám Riêu Đà Kỵ (tượng ba hoàn cảnh u
ám) thì giảm uy lực. Ngoại lệ là kỳ cách Âm Dương Sửu Mùi tiếp theo đây.
l Luận
NHẬT NGUYỆT đồng cung tại SỬU MÙI
Sửu Mùi Nhật Nguyệt cùng cung ví như mặt trời
mặt trăng cùng dành ánh sáng, là cảnh âm dương hỗn độn, tranh tối tranh sáng,
nói chung là phá cách. Vì Âm Dương cùng là đế tinh, cư mệnh thích làm đàn anh
thiên hạ nhưng lại không chịu hoặc không biết lo lắng cho thuộc hạ, gây ra những
cảnh đầu voi đuôi chuột.
Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có Tuần hoặc
Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có cơ hội phát
huy tiềm năng to lớn của mình, là một kỳ cách tốt đẹp. Địa Không cư ở đây cũng
tương tự.
Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ, lại gặp
không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng, rất cần thiết để hai đế tinh có
thể cộng tác với nhau. Thế nên Âm Dương Sửu Mùi gặp không vong đã tốt, thêm Hóa
Kỵ trở thành hoàn mỹ.
Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ vì Nhật
Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không vong.
(
PHẦN 3 )
l THÁI
ÂM ở Thìn Ngọ THÁI DƯƠNG ở hợi cần chú ý.
Thái Âm cực xấu ở Thìn Ngọ (khí dương thịnh
lại là cung dương), Thái Dương cực xấu ở Hợi (khí âm thịnh lại là cung âm),
nhưng là đế tinh nên có tiềm năng mạnh mẽ. Do đó nếu đắc kỳ cách lại thành tựu
hết sức to lớn.
Thái Dương vốn thuộc dương khi lạc hãm đắc
kỳ cách theo luật "cùng tắc biến" lại nhuốm tính âm nên dễ phát về
văn chương. Cùng lý Thái Âm vốn thuộc âm, lạc hãm đắc kỳ cách lại nhuốm tính
dương nên dễ phát về võ nghiệp.
Kỳ cách quan trọng nhất là Âm Dương hóa Lộc
hoặc hóa Quyền, thêm Xương Khúc phù tá. (Tưởng Giới Thạch tung hoành ở lục địa
Trung Hoa, bị thua chạy ra Đài Loan rồi biến Đài Loan thành một cường quốc có
cách Thái Âm hãm địa cư Thìn hóa Lộc, được thêm Khoa Quyền chiếu, lại có Khúc
Xương phù tá).
l LƯƠNG
NHẬT NGUYỆT cần chú ý.
Thiên Lương thuộc quẻ Khôn (âm) lại vĩnh viễn
tam hợp với Thái Âm (âm), được hội họp với Thái Dương (dương) thành cảnh âm
dương quân bình nên rất đẹp đẽ. Nhật vượng ở Mão thành cách Nhật Lương cùng
cung, được Nguyệt miếu ở Hợi tam hợp, nếu hội họp có thêm sao phù tá lý tưởng của
Thái Dương là Văn Xương và sao đại biểu may mắn là hóa Lộc hoặc Lộc Tồn là lý
tưởng. Nhật Nguyệt là hai đế tinh, thêm Lương là bầy tôi lương đống, cung mệnh
được cách này dễ trở thành nhân vật có quyền lực. Nhật ở Dậu hãm địa nên thành
tựu kém hơn nhưng vẫn là cách tốt đẹp. Đặc biệt nếu Nhật hoặc Lương hóa Lộc hoặc
hóa Quyền thì theo lý "cùng tắc biến" lại thành kỳ cách, tốt hơn cả
Nhật Lương cư Mão.
Lương cư Tý Ngọ cũng đắc cả hai sao Nhật
Nguyệt, nhưng không được tọa cùng đế vị nên kém hơn Nhật Lương Mão Dậu, ứng với
quyền lực ở vị trí thấp hơn, cư mệnh đắc phụ tinh tốt đẹp có thể là nhân sĩ địa
phương hoặc làm thầy giáo (số vạn thế sư biểu Khổng Phu Tử có Thiên Lương cư
Tý).
l ĐỒNG LƯƠNG tỵ hợi chú ý khi gặp LỘC MÃ
Lương gốc là quẻKhôn tượng mẹ, Đồng gốc quẻ
Đoài tượng con gái út. Đồng Lương ở Tỵ Hợi thì Âm Dương cùng cung ở Sửu Mùi là
cảnh Nhật Nguyệt tranh huy u ám. Thiên Lương mất ánh sáng của Nguyệt, lại không
được Nhật soi sáng trở thành u tối, như người mẹ quên mất thiên chức của mình.
Tỵ Hợi lại thuộc tứ mã tượng biến động nên Thiên Lương ở đây hãm địa, ứng với sự
buông thả, phóng túng. Thiên Đồng như cô con gái ham chơi được mẹ thả lỏng, nên
là cách "vượng địa" bay nhảy tự do không còn gì kềm hãm nữa.
Hóa Lộc và Thiên Mã (Lộc Mã, nhưng xem chú
ý 1) là một cách rất tốt, biểu tượng thay đổi may mắn, nhưng chính vì vậy khuynh
hướng phóng túng của Thiên Lương càng có cơ hội bộc phát. Thiên Đồng non dại
thiếu sự dạy bảo của người trên thấy đổi thay may mắn thế nào chẳng ham vui nhảy
vào, thiếu kinh nghiệm tất bị sa ngã. Bởi vậy Đồng Lương Tỵ Hợi gặp Lộc Mã thay
vì tốt đẹp lại tà dâm, bất chính.
Nếu không gặp Lộc Mã nhưng có các cách đào
hoa hội họp cũng luận như trên.
Chú ý 1: Lộc Tồn và Thiên Mã (cũng gọi là Lộc
Mã) nhưng trong TH này không thể luận như Hóa Lộc và Thiên Mã vì Lộc Tồn có
tính bảo thủ, giảm tính động của Đồng Lương Tỵ Hợi.
Chú ý 2: Tham Liêm Tỵ Hợi gặp hóa Lộc Thiên
Mã tương tự, nhưng hiển nhiên hơn vì Liêm Tham là hai sao đào hoa.
l Luận
CỰ MÔM cần chú ý.
Cự Môn là đầu đảng của các sao ám, tượng sự
bất mãn thị phi nên rất cần Thái Dương soi sáng, do đó Cự Nhật đồng cung là một
cách tốt đẹp. Nhưng cần chú ý ở Dần Nhật vượng nên tốt đẹp hơn ở Thân. Cung Mệnh
cư ở Thân có Cự Nhật là hạng người đầu voi đuôi chuột, thích đảm đương trọng
trách nhưng hay bỏ việc giữa đường.
Ngoài ra Cự Môn cũng tốt hơn nếu gặp bộ tam
minh Đào Hồng Hỉ. Ngược lại nếu cùng cung với một trong ba sao thuộc bộ tam ám
Riêu Đà Kỵ hoặc hội họp với hai hoặc cả ba sao này thì rất phiền toái, đa đoan;
dù đắc cách Cự Nhật cũng thế.
Trong các sao tĩnh thì Cự Môn – vì bản chất
đã hàm tính xấu – sợ lục sát tinh hơn cả, gặp một trong lục sát cùng cung là
phá cách. Nếu cư mệnh:
Cùng Kình hoặc Đà: Lắm thị phi.
Cùng Hỏa hoặc Linh: Lắm tai nạn
Cùng Không hoặc Kiếp: Thành ít bại nhiều.
l THIÊN
ĐỒNG tại DẬU HÃM lưu ý tuổi BÍNH ĐINH.
Thiên Đồng cực hãm ở Dậu (vì cung xung chiếu
có Thái Âm hãm địa), nên theo lý cùng tắc biến nếu cát hóa lại biến thành kỳ
cách, có thể tạo nên sự nghiệp huy hoàng.
Tuổi Bính Thiên Đồng ở Dậu (hãm) hoá Lộc,
được Thiên Cơ ở Sửu (hãm) hoá Quyền tam hợp, thêm Thiên Việt cùng cung, Lộc Tồn
ở Tỵ hội họp. Hết sức tốt đẹp.
Tuổi Đinh Thiên Đồng ở Dậu (hãm) hoá Quyền,
được Thái Âm ở Mão (hãm) hoá Lộc xung chiếu, Thiên Cơ hóa Khoa ở Sửu (hãm) và Cự
môn hóa Kỵ ở Tỵ (hãm) chiếu về, thêm Thiên Việt cùng cung. Chính cung hóa Quyền
nên đắc cách Quyền Kỵ và gồm thâu cả tứ hóa. Tốt đẹp e còn hơn cả tuổi Bính.
l ĐỒNG
CỰ tại THÌN TUẤT HÃM, lưu ý tuổi ĐINH TÂN
Thìn là vị Thiên La, Tuất là vị địa võng. Cự
ở Thìn xung Đồng ở Tuất đều là lạc hãm rất xấu, nhưng chính vì thế mà hoá cát lại
thành cực tốt.
Tuổi Đinh Thiên Đồng cư Tuất hóa Quyền, Cự
Môn hóa Kỵ thành cách Quyền Kỵ, có khả năng tạo dựng sự nghiệp trong cảnh khó
khăn. Ngoài ra lại có Thái Âm hóa Lộc ở Dần (hãm), Lộc Tồn ở Ngọ chiếu về, ứng
với tài lộc, may mắn. Thiên Đồng cư Thìn cũng rất tốt, nhưng không bằng Tuất vì
thiếu Lộc Tồn tam hợp, và Thái Âm ở Thân (vượng) hóa Lộc không tốt bằng ở Dần
(hãm).
Tuổi Tân Cự Môn cư Thìn (hãm) hóa Lộc, có
Thái Dương ở Tý (hãm) hoá Quyền nên là kỳ cách tốt đẹp. Cự Môn cư Tuất cũng tốt
đẹp, nhưng kém hơn ở Thìn vì Thái Dương ở Ngọ (miếu) hóa Quyền không bằng Thái
Dương ở Tý (hãm).
Chú ý 1: Tuổi Bính Thiên Đồng hóa Lộc,
Thiên Cơ hóa Quyền nên Thiên Đồng ở Thìn Tuất cũng tốt nhưng không bằng tuổi
Đinh vì hai lẽ: Thứ nhất Thiên Cơ uy lực kém hơn Thái Âm, thứ hai bị Lộc Tồn ở
vị nghịch lẽ âm dương.
Chú ý 2: Tuổi Quý Cự Môn ở Thìn (hãm) hóa
Quyền được thêm Lộc Tồn ở Tý chiếu về nên cũng tốt đẹp, nhưng vẫn không bằng tuổi
Tân có Thái Dương hãm cát hóa. Cự Môn ở Tuất thì kém hẳn.
l CƠ NGUYỆT DẦN THÂN gặp RIÊU HỈ
Nguyệt cực âm nên dù là đế tinh vẫn yếu đuối,
Cơ bề ngoài bảo thủ nhưng trong tâm tư biến đổi liền liền, Dần Thân lại là mã địa
tượng xung động. Hai sao đồng cung ở đây không vững vàng, lại gặp Riêu (quyến
rũ) Hỉ (vui tươi) thành cách đào hoa thì dễ sa ngã. Gặp các cách đào hoa khác
cũng luận tương tự.
Nhưng chú ý: Nếu Cơ Nguyệt Dần Thân có thêm
Không vong trấn giữ (Tuần Triệt hoặc Thiên Không cùng cung) thì ứng với luật
"cùng tắc biến" của dịch, sắc lại biến thành không; nên càng có nhiều
cách đào hoa càng có khuynh hướng tìm giải thoát trong cảnh tu hành.
l CƠ LƯƠNG THÌN TUẤT ngộ KHÔNG VONG
Cơ Lương Thìn Tuất là miếu vượng rất tốt đẹp;
cư mệnh là cách của bậc quân sư tài giỏi, gặp sát tinh cùng cung xâm phạm phải
xuống cấp vẫn còn là hạng "nhất nghệ tinh nhất thân vinh". Nhưng Cơ
Lương là hai sao nhu nhược, nên bị một trong các sao không vong đồng cung trấn
áp (gồm có Tuần Triệt, Địa Không ở vị trí này ) tất chẳng còn gì cả, như người
có của báu một lúc trắng tay, lại thiếu bản lãnh quật cường nên sinh thất chí,
cư mệnh là cách của người chán đời đi tu.
l CỰ
CƠ MÃO DẬU lưu ý tình duyên trắc trở.
Cự Cơ Mão Dậu là một kỳ cách của Tử Vi, nếu
gặp Tuần Triệt hoặc Đại Tiểu Hao để thành tựu lớn. Nhưng đây là kỳ cách do nhiều
yếu tố xấu phá hoại nhau mà thành nên theo luật bù trừ được cái này mất cái
kia.
Cự Cơ Mão Dậu cư Mệnh thì Phu thê ắt là Âm
Dương Sửu Mùi như mặt trăng mặt trời tranh dành ánh sáng, là cảnh âm dương bất
thuận; do đó là số tình duyên ngang trái.
l NỮ CÓ CƠ, NHẬT, ĐỒNG thủ mệnh lưu ý.
Phái nữ mệnh có Thiên Cơ tất cung phu có
Thái Dương là sao chính ứng với chồng. Thái Dương hãm hoặc đồng cung Thái Âm là
cảnh vợ chồng bất thuận, Thái Dương cư Dần vượng đồng cung với Cự Môn cũng là
mâu thuẫn, chỉ còn lại Thái Dương ở các cung Mão Thìn Tỵ Ngọ (ứng với mệnh
Thiên Cơ tại Tỵ Ngọ Mùi Thân). Nhưng Cơ ở Thân tất đồng cung với Thái Âm bản chất
dễ có sự thiếu đứng đắn, Cơ ở Mùi là hãm địa; nên Thiên Cơ cư mệnh chỉ có Tỵ Ngọ
là tương đối tốt đẹp cho phái nữ, ngoài ra khó tránh cảnh nhân duyên dang dở.
Phú có câu "nữ mệnh đoan chính Thái
Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng", nghĩa là nữ mệnh có Thái Dương
là người đoan chính, sớm gặp chồng hiền. Xét trên dịch lý e rằng câu phú này
không đúng; bởi Thái Dương là sao cực dương cư mệnh phái nữ không hợp.
Thái Dương càng miếu vượng tính mâu thuẫn
càng cao nên nữ mệnh có Thái Dương cư các cung Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ dễ thành
công trên đường sự nghiệp nhưng khó thuận nhân duyên. Sửu Mùi Âm Dương đồng
cung khó tránh đôi lần dang dở, các cung còn lại vì hãm địa lại hóa ra đỡ xấu,
chịu nhẫn nại qua những phút giây bất thuận thì vẫn có thể được hưởng cảnh bạch
đầu giai lão.
Thiên Đồng là phúc tinh cư mệnh dễ gặp may
mắn. Nhưng Thiên Đồng là nữ tinh yếu đuối, bản chất thay đổi vô chừng nên càng
may mắn càng có khuynh hướng tự gây phiền toái cho mình. Nghĩa là trong cái tốt
đã chứa sẵn mầm biến động, khó tìm hạnh phúc với chồng con; ngay cả Đồng Lương
miếu ở Dần Thân cũng thế.
l Cuối
cùng xin ghi nhớ câu
“ CÁCH TUY HỌA PHÚC, CHỦ YẾU
THIỆN TÂM. ” và “ KHẢ DĨ AN NHIÊN, ĐỨC NĂNG THẮNG SỐ. ”
Nghĩa là số mệnh vốn có xác suất nên họa
phúc đều có thể thay đổi. Nếu phát thiện tâm thì có thể lấy đức thắng số mà được
sự an lành.
Nhận xét
Đăng nhận xét