Trong lá số tử vi, vòng Tử vi và Thiên Phủ
là quan trọng nhất, vì phải biết Tháng, Giờ, Năm, Ngày sinh mới an được. Kế đến
là vòng Tràng sinh phải biết Tháng, Giờ và Năm sinh, rồi tới vòng Lộc tồn và
vòng Thái tuế. Thường thường thì vòng Tràng sinh, Lộc tồn và Thái tuế được để ở
bên dưới chính tinh tại mỗi cung, Tràng sinh ở giữa Lộc tồn và Thái tuế hai
bên, người xem số Tử vi có kinh nghiệm thường sẽ xem ở cung Mệnh có những sao
nào của ba vòng này để dễ bề cân đong đo đếm.
Các cụ ngày xưa, gọi bốn cung Dần, Thân, Tị,
Hợi là Tứ sinh hay Tứ Tuyệt vì sao Tuyệt và sao Tràng Sinh bao giờ ũng phải an ở
bốn cung này. Bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu được gọi là Tứ chính vì bốn cung này
đóng ở Chính Bắc, Chính Nam, Chính Đông và Chính Tây. Còn bốn cung Thìn, Tuất,
Sửu, Mùi thì coi là Tứ mộ (đất) vì thuộc Thổ.
Vì những lẽ kể trên là rất quan trọng, nếu
an sai vị trí của hai sao Tràng Sinh và Tuyệt thì việc giải đoán lá số coi như
không đúng.
Vòng Tràng Sinh có sao Mộ, nếu đi thuận thì
sao Mộ ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, nếu đi nghịch thì sao Mộ ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu.
Thuận hay nghịch ở Tứ Mộ hay Tứ Chính ta phải để sao Mộ yên vị ở đó, đấy là luật
bất di bất dịch của Tử Vi Đẩu Số.
Bây giờ ta giải đoán lá số nam mệnh, sinh
năm Giáp Dần, tháng Giêng, mồng 1, giờ Tí.
Cung Mệnh và
cung Thân đều
ở Dần gọi là Thân Mệnh đồng cung. Mệnh là do trời. Thân là có trời mà cũng có
Ta. Lúc mới sinh ra thì có Mệnh do trời sắp đặt cho hết đời mình. Rồi lớn lên
được dạy bảo hướng về Thiện (hay ác) đó là tu thân. Trong sách thấy nói từ 30
tuổi là có ảnh hưởng cung Thân, nhưng cũng có số ít cho rằng cung Thân có ảnh
hưởng từ khi đứa trẻ biết phân biệt Thiện, ác tức từ 7, 8 tuổi.
Theo lá số trên, thì Mệnh và Thân vô chính
diệu, đắc nhất không, may là cung Mệnh có Lộc tồn thì cũng đỡ khổ. Lại được
cách “Nhật Nguyệt chiếu hư không” rất tốt, thêm Long trì, Phượng Các, Bạch hổ,
Hoa cái cho nên rất đàng hoàng.
Cung Mệnh có Tràng sinh cung Quan lộc có Đế
vượng và cung Tài bạch có sao Mộ, số này sống lâu được hưởng giàu sang phú quí.
Cung Tài bạch ở Tuất có Cự môn hãm, may
có Văn Xương, Văn khúc, Hữu Bật, Tả phụ Bát tọa, Tam thai và được Mộ khố xung
chiếu tiền tài sung túc. Thêm Bạch hổ Tang môn là xấu, tiền bạc bị sút giảm ít
nhiều.
Cung Quan Lộc ở Ngọ có Thái Dương là rất
tốt đẹp, đó là cách Nhật Lệ trung Thiên, quí cách “hữu chuyên quyền phú gia địch quốc” nghĩa là nếu không chuyên quyền
thì giàu to. Nhưng có Hóa Kị đồng cung là nếu không bị mắt kém thì thường bị
đau đầu. Cung Quan lộc chỉ việc tranh đấu với đời. Mệnh Tài Quan là ba cung
quan trọng nhất, ba cung này có thể dự đoán được đúng nhất.
Sau đến ba cung Thiên Di, Phúc đức, Thê Thiếp,
ba cung này có thể dự đoán đúng thứ nhì.
Rồi đến ba cung Phụ Mẫu, Tử Tức, Nô Bộc, ba
cung này chỉ đúng một cách tương đối, sau hết là đến ba cung Huynh Đệ, Điền Trạch,
Tật ách, lưu ý cung Điền Trạch quan trọng với nam hơn với nữ.
Cung Thiên Di là cung chỉ việc đi ra
ngoài ở Thân ngộ Triệt là ra ngoài thường gặp những sự phiền lòng và khi chết
thì ở xa nhà. Có Thiên Cơ, Thái âm hãm địa gặp Triệt thành sáng sủa hợp chiếu
có Thiên Đồng, Thiên Lương làm văn quan thì hợp.
Cung Phúc Đức ở Thìn có Thiên Đồng ở
Thìn có Thiên Đồng hãm địa nhưng Thiên Đồng hành thủy hợp mệnh lại là phúc
tinh, ở cung nào thì giáng phúc cho cung đó. Lại có nhiều Cát Tinh hội hợp,đó
là cách Ngọc Tụ Thiên Hương
(hương thơm tụ lại cây ngọc) thật là tốt, lại ở Mộ Khố, nhờ phúc đức và giàu lớn.
Cung Thê Thiếp ở Tý ngộ Tuần là số phải lập
gia đình chậm mới tránh được phân ly chia cách. Có Thái Dương miếu địa xung chiếu
Long trì Phượng Các vợ sẽ là một mệnh phu, vượng phu ích tử, và rất đàng hoàng
vì có Long trì Phượng Các. Có Thai phục vượng tướng là ăn ở với nhau rồi mới
làm lễ cưới.
Cung Tử tức ở Hợi có Thiên Tướng tốt lắm,
con cái học hành giỏi, thêm Địa Kiếp Địa không đắc địa là có con thì rất có thể
có một lúc nào đó rất hoạnh phát, nhưng có Đại hao, Tiểu hao nuôi con rất tốn
kém, sinh nhiều mà nuôi được ít. Có Thiên Tướng và Tuyệt thì dễ có hai giòng
con.
Cung Phụ mẫu có Thiên Không, Địa kiếp,
Địa không Kình Dương, Linh tinh, Thiên hình là cha mẹ xung khắc với đương số, nếu
không thì cha mẹ xung khắc nhau vì có Đào hoa, ông cụ lả lướt, có vợ lẽ con
riêng nên xung khắc là lẽ đương nhiên.
Cung Nô bộc ở Mùi có Thiên Phủ, Thiên
Việt, Thiên Khôi người giúp việc và bạn bè rất tốt rất giỏi, lại có Hồng Loan,
Thiên hỷ, Đào hoa cùng Thiên Riêu họ rất lẳng lơ đa tình, phải coi chừng kẻo mắc
phải lưới tình, một phút sa cơ, tiếng xấu một đời.
Cung Huynh đệ ở Sửu ngộ Tuần, anh em
không hợp tính nhau nên bất hòa, tuy nhiên có Hóa Lộc, Hóa Quyền. Hóa Khoa tọa
thủ và hợp chiếu anh em giàu có và tài giỏi vì có Thiên Khôi, Thiên Việt. Lại
có Hồng Loan, Thiên Riêu là họ cũng lả lướt lắm và phóng khoáng, có tiền bạc
nhiều lại càng trác táng.
Cung Điền trạch ở Tị có Vũ Khúc, Phá quân
hãm là lúc trẻ tuổi, có nhà đất thì tiêu tán, lúc lớn tuổi lại mua tậu, khi đó
mới giữ được của. Có nhà đất lớn vì hội tụ Khoa Quyền Lộc.
Cung Tật ách ở Dậu ngộ Triệt là suốt đời
ít ốm đau, nếu có thì tai quan nạn khỏi. Có Thiên Hình Linh Tinh Hỏa tinh, Kình
dương, Đà la là hay gặp tai nạn, nhưng có Tử vi và Khoa Quyền Lộc, Quang Quý cứu
giải nên tai nạn cũng không đáng ngại.
Đại hạn
- Đại hạn từ nhỏ
đến 15 tuổi:
Mệnh Thân ở Dần có Lộc tồn, giáp Hóa Lộc,
Thái Tuế, Thai phụ, Phong Cáo, Nhật Nguyệt chiếu hư không Long trì, Phượng các,
Bạch hổ, Hoa cái sống trong cảnh sung túc, học giỏi, rất đàng hoàng.
- Đại hạn từ 16
tuổi đến 25 tuổi: có Thiên không, Địa kiếp, Địa không, Linh tinh,
Kình dương, Thiên hình rất xấu, vất vả.
- Đại hạn từ 26
tuổi đến 35 tuổi: có Thiên Đồng hãm địa may có Tả phụ, Hữu bật, Văn khúc,
Văn Xương, rất tốt lại có Mộ khố (Kho tiền) học giỏi tài hoa được quý nhân giúp
đỡ làm giàu và có danh giá.
- Đại hạn từ 36
đến 45 tuổi
Có Vũ khúc Phá quân thêm Hóa Quyền, Hóa
Khoa, Hóa Lộc, ân quang, Thiên quí thật là tốt đẹp có tiền bạc có quyền hành,
có danh giá. Lại có Địa kiếp, Địa không đắc địa xung chiếu có thể có hoạch phát
tài. Nhưng có Hồng loan, Thiên riêu, sợ rằng có tiền nhiều chơi bời trác táng.
- Đại hạn từ 46
đến 55 tuổi
Ở Ngọ có Thái Dương là giàu sang phú quý tột
bực. Có Hóa Kị là cách “Cát xứ tàng hung” nên bị giảm 3 phần 10, hay bị đau mắt
nặng.
- Đại hạn từ 56
đến 65 tuổi
Ở Mùi có Thiên Phủ, Thiên Khôi, Thiên Việt,
Hóa Lộc thật là giàu sang, nhưng có Thiên hỷ, Hồng Loan, Đào hoa, Thiên Riêu,
Thiên Y sợ rằng chót đời rồi mà bị gái đẹp làm mất danh giá và hại đến gia
phong.
- Đại vận 66-75 tuổi
- Ở Thân có Thiên Cơ Thái âm ngộ
Triệt. Thiên Cơ, Thái âm ngộ Triệt thành tốt. Có Thiên Mã gặp Lộc vẫn giàu có,
an hưởng tuổi già.
Tiểu hạn 1 năm
- Năm Sửu 36 tuổi
Ở Mão, có Linh tinh Kình Dương Thiên Không,
Địa kiếp, xấu lắm. Nhưng Đại hạn từ 36 đến 45 tuổi tốt, nên cũng không xấu lắm,
năm Sửu nửa phần tốt, nửa phần xấu (5/10 tốt 5/10 xấu).
- Năm Dần 37 tuổi.
Ở Thìn có Thiên Đồng khá tốt, thêm Tả phụ,
Hữu bật, Văn Khúc, Văn Xương tiểu hạn này tốt lắm. Đại hạn cũng tốt vậy. Tốt
9/10 và xấu 1/10.
- Năm Mão 38 tuổi
Ở Tị có Vũ khúc Hóa quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc
thật là tốt, nhưng có Hồng Loan, Riêu y bị giảm. Còn 7/10 tốt và 3/10 xấu.
- Năm Thìn 39 tuổi
Ở Ngọ có Tử vi thực là rực rỡ, lại có Lộc tồn
hợp chiếu vừa có danh giá vừa có tiền tài, nhưng bị Hóa kị đồng cung bị cách
“Cát xứ tàng hung” nên chỉ còn 8/10 tốt và 2/10 xấu.
- Năm Tị 40 tuổi
Ở Mùi có Thiên Phủ, Thiên Khôi, Thiên Việt,
Hóa Lộc thật là tốt đẹp. Thiên Phủ là sao tiền bạc thêm Hóa Lộc là giàu lớn lại
có Thiên Khôi, Thiên Việt là người có lượng bao dong, có tài tổ chức.
- Năm Tý 47 tuổi nhập cung mệnh tại cung Dần có Thiên Lộc được âm dương sáng sủa hội chiếu nên rât tốt đẹp.
Nhận xét
Đăng nhận xét