Có 3 trường hợp mệnh VCD được Nhật Nguyệt chiếu, được xem là
hoàn hảo nhất ở 3 cung Mùi Ngọ Sửu, nếu khi đó cung Phúc đức VCD
có Tuần, hay
Triệt án ngữ thì hết sức tốt đẹp.
hoàn hảo nhất ở 3 cung Mùi Ngọ Sửu, nếu khi đó cung Phúc đức VCD
có Tuần, hay
Triệt án ngữ thì hết sức tốt đẹp.
3/VCD ở Sửu thì Nguyệt hãm gặp Triệt ở Tỵ, Nhật hãm gặp Tuần
ở Dậu, (chính là tuổi Bính Tý, Tân Tỵ) + Đào Hồng Hỷ
mới là đắc cách, nếu không có Tam minh thì phải có Long Phượng, Xương
Khúc, hay Quang Quý.
Các trường hợp trên hội cùng Đào Hồng Hỉ -
Xương Khúc – Long Phượng – Quang Quý : thì vừa thông minh, tài giỏi, vừa được vận
mạng tốt đẹp.
Nếu gặp 1 trong 4 Không (Tuần Triệt, Thiên
Không, Địa Không) thì bị giảm kém hẳn . Nếu có 1 Không kèm bên Nhật hay
Nguyệt thì sẽ bị yếu hẳn.
MỆNH VCD:
1.Đắc Tam
không :
Thông thường người ta hay cho là Mệnh
vô chính diệu rất cần có ¼ Không tọa thủ (Thiên Không - Địa Không - Tuần - Triệt).
Nhưng dù đắc Tam Tứ không thì sự phú quý “khả kỳ” (1 thời kỳ), cũng báo hiệu sự
lên xuống thất thường rồi.
Nếu chỉ có 1, 2 không (tức không đủ
3, 4 Không) thì cuộc đời thiếu niên cho đến trung vận khó thoát cảnh bôn ba
chìm nổi. Và phải mượn chính tinh cung Di làm chính tinh tọa thủ mà luận giải.
*/Nếu Mệnh vcd mà có nhiều Trung cát tinh tốt hội họp (tức trung
cát tinh tọa cung Mệnh và ở tam phương tứ chính chiếu về Mệnh), thì không nên
có ‘Không’ nào tọa thủ tại cung vcd (Tuần Triệt, Đ.không, Th.không): (vì các
trung cát tinh đã bị ‘Không’ tọa thủ làm mất hiệu lực). Đừng ham đắc Tam không
này. Tam không chỉ nên chiếu về là hơn.
*/Khi mệnh vcd mà có bại tinh, hay
bàng tinh không hợp mệnh (không có Trung cát
tinh) thì mới cần có 1 Không (nhất là Tuần hay Triệt án ngữ), nhưng
lại bị thiệt thòi là các cách tốt bên ngoài khó chiếu vào mệnh [vì đã bị
“Không” (Tuần Triệt) nhất là Triệt ngăn cản] nên chưa chắc là có lợi. Nếu là Tuần
án ngữ thì cát tinh có thể chiếu về cung vcd, nhưng hung tinh cũng có thể chiếu
về cung vcd.
Nhưng nếu là Thiên không, thêm Thiên
Hư càng hay (tuy quyền biến khôn ngoan nhưng cuộc đời thăng trầm , cực khổ),
nhưng không nên là Địa Không (vì Địa không hại Song lộc, hại Tam hóa, hại Lộc
Mã: làm cho gia tăng tài lộc rồi nhanh chóng hao tán, hay vì thế mà bệnh nạn).
Nếu Địa không lại hội với hung tinh thì càng hung: không phiêu bạt cũng là
nghèo khổ, phải có cát tinh chiếu về hóa giải mới giảm bớt hung hiểm, giảm bớt
lao khổ.
2. Không
đắc ‘Không’ nào:
Tức là cung mệnh vcd không có ‘Không’ nào (không có Tuần Triệt
hay Đ.không) nhưng cung Phúc đức tốt đẹp là đã tránh yểu mệnh, rồi mới đến công
danh sự nghiệp qua các cung chiếu và cung Đại hạn.
Nhiều lá số
chỉ đắc có 1 Không (Tuần án ngữ) mà vẫn phú quý và cũng chẳng hề chết non, vì đều
có cung Phúc đức
tốt .
3.Nhật Nguyệt
chiếu hư không chi địa.
Khi Mệnh vô chính diệu có nhiều trung tinh xấu như Kiếp – Phục
- Hỏa Linh … thì không nên có ‘Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa’ (vì như thế
không khác gì vạch áo cho người xem lưng).
Nếu đúng cách Nhật Nguyệt (tức
là Mệnh vcd không có Tuần Triệt , cũng không có trung tinh xấu), thì nên có
Thiên Không hay Thiên Hư ở cung vcd : như vậy thì công danh phú quý mới lâu bền
, óc thông minh mới siêu việt, nhưng cũng chỉ nên đóng vai trò làm “Phó” thì mới
lâu bền.
4. HUNG
TINH ĐẮC ĐỊA ĐỘC THỦ và phải hợp mệnh (cần nhất là hỏa mệnh và kim mệnh);
hung tinh phải là Không Kiếp – Kình Đà – Hỏa Linh – Tang Hổ … đắc địa), và chỉ
có 1 hung tinh, và không được có Tuần Triệt án ngữ sẽ phá cách hung tinh đắc địa.
Thí dụ : Mệnh kim, vô chính diệu ở
cung Thân kim có Đà là độc thủ , Đà la thuộc kim, ở cung Thân kim là đắc địa,
cùng hành với mệnh kim . Như vậy là đắc cách “Đà la độc thủ” : phát công danh lớn.
Thí dụ : Mệnh hỏa, Mệnh vô chính diệu
có Thiên Không tọa thủ . Đây là đắc 1 không : rất tốt.
Thí dụ : Mệnh mộc, an tại cung Thân
kim vô chính diệu có Đại hao – Tang môn - Địa Kiếp gặp Tuần.
[Tang là mộc cùng hành với bản mệnh
, nhưng Tang môn ở thân kim thì không đắc địa ,như thế là không tốt . Nhưng Tuần
ở đây lại làm cho Tang môn sáng lên , và Tuần khống chế Đ Kiếp – Hao (Kiếp –
Hao là hỏa có thể gây họa cho mệnh mộc gặp tuần lại tốt) : nên cuối cùng vận số
lại tốt.
Nên nhớ : Hung tinh tại Mệnh vô
chính diệu thì phải đồng hành với Mệnh (nếu sinh cho mệnh thì không tốt bằng).
Còn những hung tinh khác chiếu mệnh thì cũng chỉ là phụ , chỉ kể đến hung tinh
đồng hành với Mệnh mà thôi . Trường hợp không đắc Tam Không Tứ Không vẫn đẹp.
5. ĐẮC TAM KHÔNG THÌ PHẢI LÀ MỆNH HỎA HAY MỆNH
KIM (mệnh hỏa đẹp hơn mệnh kim)
Bản mệnh vcd có 1 Không đắc địa
thủ Mệnh, 1 Không ở cung tam hợp và 1 Không ở cung xung chiếu, là cách “đắc
tam không” phú quý khả kỳ (một thời phú quý, vì các sao ‘Không’ đều là Hỏa).
6. Nhưng Mệnh vô chính diệu mà “đắc Tam không” chỉ cũng chẳng làm nên
trò trống gì . Lúc ấy: 1/Cần phải có Song Lộc hội chiếu. 2/Phải là con trai độc nhất trong gia
đình (có thể có chị em gái) nhưng phú quý cũng không lâu bền (mặc dù không ai bằng
mình); 3/Nên cần phải cộng tác với
nhiều người, và mình chỉ là cố vấn, hay chỉ là phụ tá thì mới thành công lâu
dài.
7. Mệnh vô
chính diệu có Hung tinh hãm địa hoặc hung tinh đắc địa nhưng lại khắc mệnh, hợp
chiếu lại có 2, 3 Không, thì đây chính là “phi
yểu tắc bần” của mệnh vô chính diệu.
* Hung tinh hãm địa hoăc hung đắc địa
khắc mệnh tại mệnh VCD, nhưng có Tuần Triệt án ngữ tại mệnh thì sẽ hóa giải
hung tinh.
Nếu hung tinh đắc địa hợp mệnh, lại
bị Tuần Triệt án ngữ thì Tuần Triệt hóa giải mất cái hay của hung tinh đắc địa.
Mệnh vô chính diệu không có Tuần
Triệt án ngữ , nhưng có Thiên Không án ngữ : tuy quyền biến khôn ngoan nhưng cuộc
đời thăng trầm , cực khổ.
ƯU KHUYẾT ĐiỂM CỦA
CUNG VCD:
Thân Mệnh đồng cung tại tứ mộ (Thìn
Tuất Sửu Mùi) vô chính diệu là số nghèo khó, yểu tử. Rất cần Tuần Triệt
án ngữ, hay nhiều trung tinh tốt đẹp tọa thủ, hay hợp chiếu để cứu giải
thì mới mong được đầy đủ cơm áo và sống lâu.
Thân Mệnh đồng cung tại Tý Ngọ vô
chính diệu, nếu có nhiều bại tinh và sát tinh hãm địa tọa thủ hay hợp chiếu
thì nghèo khổ, cũng như đóa hoa mới nở đã bị gió mưa vùi dập phủ phàng. Nếu
có Hóa lộc tọa thủ thì mới giàu nhưng không được thọ, không
có Hóa lộc thì nghèo khổ nhưng sống lâu.
Cung mệnh có tuần án ngữ, cung thân
có triệt án ngữ là ‘mệnh tuần thân triệt’. Cung mệnh hay cung thân cần
phải có cơ nguyệt đồng lương mvđ hội hợp. Có được như vậy
thì suốt đời mới được đắc ý, và về già mới được an nhàn thoải mái.
Cung mệnh có triệt án ngữ, cung
thân có tuần án ngữ gọi là ‘mệnh triệt thân tuần’. Cung
mệnh và cung thân cần phải VCDcó như vậy cuộc đời mới được đắc
ý, thêm tuổi thọ, về già mới được an nhàn sung sướng.
Cung mệnh có địa không tọa thủ,
cung thân có địa kiếp tọa thủ gọi là ‘mệnh không thân kiếp’.
Người mệnh không thân kiếp rất khôn ngoan sắc sảo, nhưng trong đời lại vui
ít buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường. Nếu cung mệnh vô chính diệu lại
có đại tiểu hao hợp chiếu thì tuy là người ít học nhưng cũng lập được
công danh sự nghiệp. Nếu cung mệnh hay cung thân lại có chính tinh
như thiên đồng, thiên lương, hay phá quân thì bị yểu vong.
Cung mệnh có địa kiếp tọa thủ, cung
thân có địa không tọa thủ gọi là ‘mệnh kiếp thân không’: Đây
cũng là một mẫu người khôn ngoan sắc sảo, cuộc đời vui ít buồn nhiều, thành
bại thất thường, làm gì cũng chẳng được lâu bền. Nếu cung mệnh vô chính diệu
lại có hồng đào sát tinh hội chiếu thì số chết non, nếu không lúc thiếu thời
cũng vô cùng vất vả gian truân. Nếu mệnh kiếp thân không lại có nhật nguyệt hay
tử vi miếu vượng tọa thủ thì cũng được đắc ý và sự nghiệp cũng có để
lại cho đôi chút tiếng vang.
Mệnh hay Thân VCD , mà giáp 2
bên cũng VCD là Mệnh hay Thân rất yếu, khi mình đối diện với
chính mình thì luôn có cảm giác cô độc, lo sợ, nên thích lệ
thuộc vào ngoại cảnh, thích ở chỗ đông người chứ không muốn ở 1 mình; vì
không đủ tự tin nên không thích hợp cho những công việc khó khăn mà tự mình phải
quyết định.
Thân VCDlà người
không có tính chủ động, thường lệ thuộc vào ý kiến của người khác và lấy ý kiến
người khác làm ý kiến của mình. Dễ thích nghi với hoàn cảnh (gió chiều nào xoay
chiều đó)
Thân Mệnh đồng
cung VCD ở Tứ mộ thì bần yểu. Nếu có Tuần Triệt hay nhiều cát tinh thì cũng đỡ lo.
Thân Mệnh đồng
cung VCD ở Tý Ngọ , có nhiều sao xấu thì nghèo nhưng thọ, còn có Hóa Lộc thì giàu nhưng yểu.
Thân Mệnh đồng
cung ở Mão Dậu thì có duyên tu hành.
Thân Mệnh mà VCD
thì nên an phận thủ thường, làm ít ăn ít, chứ giàu sang thì khó thọ. Ngoài 40
tuổi tạm ổn.
A.Khuyết điểm:
- Mệnh VCD thì phải
mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình nên đặc tính đầu tiên của người
VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh (ngả gió, lấy ý kiến người
khác làm ý kiến của mình) và chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt
xấu của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi.
- Mệnh vcd căn bản vốn không bền
vững (căn bản ở đây không phải nói về tài năng, mà chỉ có nghĩa là môi trường
của mình). Chỉ tốt khi đến trung vận.
Vì VCD thì bao giờ cũng phải phụ
thuộc vào chính tinh đối cung, mà đã tùy thuộc thì tức là không có căn bản vững
chắc (nghĩa là không có gốc).
Nếu cung xung chiếu cũng không
có sao tốt, thì lại phải hướng về 2 cung hợp chiếu là Tài và Quan, mà ảnh hưởng
sẽ yếu hơn nhiều, và do đó môi trường của Mệnh lại càng bấp bênh hơn nhiều.
Do vậy, người vcd cho dù có tài
năng, thông minh (được hưởng các yếu tố khác) thì cũng dễ bị thăng trầm về sự
nghiệp, khi gặp Đại Tiểu hạn trùng phùng mà xấu thì mệnh không khác gì căn nhà
trống không có cửa lại bị cơn gió lốc thổi vào.Trong trường hợp này, nếu có Tuần
hay Triệt án ngữ thì sẽ đỡ hơn nhiều (tức là mệnh vcd phải có Tuần hay Triệt
án ngữ tại bản cung)
Người VCD tánh tình thâm trầm,
khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn
thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với họ. Họ có
khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác, còn đối
với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà họ dự
tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoảng tiền vận của cuộc
đời, càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.
-Khó đóng vai
trò chính :
Mệnh vcd không khác gì căn nhà
trống không có cửa , dễ bị ảnh hưởng của ngoại cảnh . Do đó, cho dù đắc
Tam không cũng không thể nào và cũng không bao giờ nên “nắm giữ vai trò chính”
trong bất kỳ lãnh vực nào , cảnh ngộ nào (từ xã hội cho đến gia đình, hôn
nhân …) vì dễ bị mất chức, mất việc.
*Trong gia
đình :
Người VCD thường lao đao vất vả
đau yếu , khó nuôi trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng
về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Có giác quan thứ sáu, linh cảm được chuyện
sắp xảy ra. Dễ giảm thiểu được bệnh tật, tai họa do lường trước hoặc cảm nhận
trước được sự việc sắp xảy ra.
Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng thường chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau mà thôi.
Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng thường chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau mà thôi.
Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp
thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn.
Thường hay mắc bệnh dị ứng hoặc
trong đời có lần mắc bệnh dị ứng.
Rất nhạy cảm khi gần người khác phái.
Không có lập trường tư tưởng vững vàng nếu không nằm trong các trường hợp đặc biệt đã nêu.
Chỉ làm phụ tá thì bền, làm trưởng thì không bền, không thể đứng mũi chịu sào được, chỉ hoạt động trong bóng tối hoặc ẩn danh là hay nhất.
Cuộc sống không bền, trôi nổi, cho dù đắc cách thì thường thường phú quý cũng khả kỳ (chỉ trong một giai đoạn), hoặc đến lúc hưởng phú quí thì lại chết .
Nếu là con trưởng thì không sống gần cha mẹ, nên làm còn nuôi họ khác, nếu gần cha mẹ thì dễ chết non hoặc nghèo (phi yểu tắc bần)
Mệnh VCD thì cần Hỏa mệnh và Kim mệnh (vì mệnh VCD như nhà không nóc, cần bản mệnh có hành khí mạnh mẻ cứng cỏi làm nồng cốt). Các mệnh khác như Thổ, Thủy, Mộc mệnh chưa chắc ăn được, trường hợp đắc Tam không thì cần Hỏa hoặc Kim mệnh. Hung tinh độc thủ thì cần đồng hành là tốt nhất, Có Nhật Nguyệt hội chiếu thì có thể áp dụng cho tất cả các hành bản mệnh.
Mệnh CVD thường là con vợ hai, vợ lẽ.
Mệnh VCD mà cung Tử tức cũng VCD thì xấu, không con hoặc khổ về vấn đề con cái.
Rất nhạy cảm khi gần người khác phái.
Không có lập trường tư tưởng vững vàng nếu không nằm trong các trường hợp đặc biệt đã nêu.
Chỉ làm phụ tá thì bền, làm trưởng thì không bền, không thể đứng mũi chịu sào được, chỉ hoạt động trong bóng tối hoặc ẩn danh là hay nhất.
Cuộc sống không bền, trôi nổi, cho dù đắc cách thì thường thường phú quý cũng khả kỳ (chỉ trong một giai đoạn), hoặc đến lúc hưởng phú quí thì lại chết .
Nếu là con trưởng thì không sống gần cha mẹ, nên làm còn nuôi họ khác, nếu gần cha mẹ thì dễ chết non hoặc nghèo (phi yểu tắc bần)
Mệnh VCD thì cần Hỏa mệnh và Kim mệnh (vì mệnh VCD như nhà không nóc, cần bản mệnh có hành khí mạnh mẻ cứng cỏi làm nồng cốt). Các mệnh khác như Thổ, Thủy, Mộc mệnh chưa chắc ăn được, trường hợp đắc Tam không thì cần Hỏa hoặc Kim mệnh. Hung tinh độc thủ thì cần đồng hành là tốt nhất, Có Nhật Nguyệt hội chiếu thì có thể áp dụng cho tất cả các hành bản mệnh.
Mệnh CVD thường là con vợ hai, vợ lẽ.
Mệnh VCD mà cung Tử tức cũng VCD thì xấu, không con hoặc khổ về vấn đề con cái.
Các cung dưới đây thì tùy trường
hợp mà luận giải, nhưng đánh giá tốt xấu thì cơ bản cũng dựa vào cách đánh giá
cung VCD đã bàn bên trên. Sự gia giảm mức độ đương nhiên cũng phải dựa trên bối
cảnh Mệnh Thân Phúc Hạn và các sao khác thủ chiếu tại cung VCD…
Mệnh vcd thì mình chỉ là con thứ, nếu
là con trưởng thì là con vợ kế, vợ lẽ, như thế mới thọ và mới có công danh.
* Về hôn nhân:
Mệnh vcd thì nên chịu là kẻ đến
sau thì cuộc sống mới thịnh vượng và an lành hơn. Còn nếu mình là chính thất
thì đương nhiên sẽ bị thiệt thòi về sự nghiệp (khó khăn, trở ngại, thất bại,
tai họa trong cơ sở mà mình điều hành )
Đó là sự thiệt thòi và bất công
cho người mệnh vcd .
-Khó phát sớm
:
Trừ 1 vài trường hợp đặc biệt,
những người Mệnh vcd thường khó phát sớm (tức là khi còn trẻ, như
1 cây non nẩy mầm nơi đất xấu): cho nên đừng bao giờ thất vọng khi thấy công
danh sự nghiệp của mình phát chậm (ngoài 40, và miễn là những đại hạn
từ trung vận trở đi đừng quá tệ).
Nếu người đó phát sớm thì cũng đừng
nên vội mừng và tự tin, vì không khác chi hoa “sớm nở tối tàn” về công danh
cũng như về tuổi thọ. Nếu phát đạt thì không nên có thêm anh chị em. Tốt
nhất là nên an phận thủ thường, bằng không thì kém thọ.
(Người mệnh VCD mà gặp ngay đại
hạn kế tiếp thật tốt, rồi những đại hạn sau xấu, thì không thể nào bằng đại hạn
kế tiếp kém, và những đại hạn sau đẹp hơn, để cho mệnh có đủ thời gian hấp thụ
các sao thuộc các cung xung chiếu và hợp chiếu. Như thế mới đủ khả năng xử dụng
về đại hạn tốt 1 cách vững bền.
-Nghị lực kém
:
Người mệnh vcd cũng khó có lòng
can trường hay tinh thần dũng mãnh , cương nghị (dù có tài ba lỗi lạc đến
đâu cũng vậy), không thể giữ vững lập trường.
Nhưng nếu mệnh chịu ảnh hưởng của
Tài Quan nhiều hơn thì việc lệ thuộc cũng nhẹ đi nhiều . Chỉ ngại cung
Di, nếu có chính tinh dùng cho Mệnh được nhiều , thì sự lệ thuộc vào
ngoại giới sẽ mạnh mẽ hơn (vì cung Di tiêu biểu cho ngoại giới , tiếp xúc
trong xã hội).
Vậy nên chú ý đến điều này khi
cân nhắc đến nghị lực của người mệnh vcd.
B.Ưu điểm:
Người mệnh vcd
cũng có những điểm bù trừ độc đáo mà các lá số có chính tinh tại mệnh lại không
có :
-Đa năng và mẫn tiệp : tuy
mệnh vcd dễ bị các sao xấu bên ngoài xâm phạm nhưng cũng dễ tiếp nhận những
tinh hoa của các cung tốt chiếu về (nếu có).
Vì thế, người mệnh vcd khi lớn
tuổi thành công dễ dàng , nhưng tuần tự trong nhiều lãnh vực : đó là khả
năng tìm hiểu , học hỏi , kiên nhẫn. Còn mức độ thành công thì tùy
theo cách tốt xấu trong lá số. Nên người mệnh vcd khôn ngoan, sắc xảo
là thế.
Nếu bạn là chủ nhân, giám đốc 1
cơ sở, 1 công ty thì nên tuyển những người mệnh VCD : vì họ rất chịu khó học hỏi,
có lương tâm nghề nghiệp, có óc cầu tiến. Nhưng đừng bao giờ nên dùng họ vào việc
chỉ huy hay chủ chốt
-Ít tai nạn:
Người mệnh vcd ít gặp tai nạn
(chứ không phải là không gặp tai nạn).
Vì mệnh vcd khi gặp Đại Tiểu hạn
Sát Phá Liêm Tham và Hung tinh đắc địa lại phát mạnh, trong khi mệnh mà có
chính tinh là văn cách lại không hợp , mà đôi khi còn gặp nguy hiểm nữa .
Người mệnh vcd hay bị khổ về
tinh thần , nên dù sao ít tai nạn cũng là luật bù trừ.
-Dễ thích nghi
với hoàn cảnh :
Mệnh vcd chẳng khác gì mệnh
trung lập , gặp đại hạn nào cũng thích nghi được , không bị tréo cẳng ngổng
như mệnh có chính tinh. Do đó, đỡ bị gặp “bước đường cùng”.
Không cần bàn đến thọ yểu , mà
chỉ bàn đến công danh , sự nghiệp (vì lẽ tất nhiên , khi gặp đại vận xấu vẫn phải
chết).
Thí dụ : Hạn gặp Tuần Triệt hay
Th.Không, thì đối với mệnh có chính tinh, nhất là Tử Phủ thì rất bất
lợi, nhưng đối với mệnh vcd lại hay : vì không khác gì căn nhà trống lại được lắp
cửa vào (TT-Không) để che chắn gió.
Cung vcd mờ xấu,
nhưng được Tam không hội họp thì tốt; nhưng nếu tam hợp, xung chiếu có nhiều
sao sáng tốt đẹp, mà bản cung vcd có TT thì sẽ xấu.
[Tuần án ngữ tại
cung vcd:
*nếu cung vcd
xấu thì làm giảm xấu ở cung vcd, nhưng không ngăn chặn cát tinh và hung tinh từ
tam phương tứ hướng chiếu về cung vcd.
*nếu cung vcd
tốt (tức có trung tinh cát thì sẽ bị Tuần làm cho giảm cát, và tiếp nhận hung
cát tinh chiếu về).
Còn nếu Triệt
án ngữ thì:
* nếu
cung vcd xấu thì sẽ làm giảm xấu, nhưng cũng ngăn chặn không cho hung cát tinh ở
tứ hướng chiếu về;
*nếu cung vcd
tốt thì làm giảm tốt, và cát tinh ở tứ phương cũng không thể chiếu về được]
-Mệnh vô chính diệu, không có cát
tinh : số long đong, vất vả từ bé, phải rày đây mai đó.
-Mệnh vô chính diệu đắc 1
Không, có Khoa Quyền hợp chiếu, Khôi Việt–Xương Khúc-Tả Hữu : lúc nhỏ
vất vả, lớn lên có tài xoay sở, thành công về học vấn và được hưởng giàu sang.
-Mệnh vô chính diệu đắc 2 Không,
có Nhật Nguyệt chiếu : đa sầu đa cảm, có óc văn nghệ.
-Mệnh vô chính diệu có 2 Không + 2
Kiếp+ Trực phù chiếu : dễ nóng nảy, ưa dùng thủ đoạn ma giáo.
-Mệnh vô chính diệu đắc Tam
Không, Khoa Quyền + Khôi Việt hợp chiếu tính đôn hậu, văn chương lỗi lạc,
giàu sang và thọ.
-Mệnh vô chính diệu đắc 3 Không +
Khoa Quyền Lộc chiếu : giàu sang, phú quý.
-Mệnh vô chính diệu đắc 4 Không +
Cơ Lương Cự Nhật (hoặc Cự Đồng Nhật Lương) miếu vượng chiếu+ Đào Quyền Lộc :
giàu sang suốt đời.
-Mệnh vô chính diệu có Tuần án
ngữ, Xương
Khúc, Đồng Âm xung chiếu, Tả Hữu, Tam hóa liên châu hợp chiếu :
giàu sang phú quý tột bực.
-Mệnh vô chính diệu có Tuần án
ngữ, Lộc
tồn xung chiếu : cả đời no ấm.
-Mệnh vô chính diệu không có
Tuần Triệt, lại được ‘Nhật Nguyệt đắc địa có Tuần Triệt Hóa Kỵ’ đồng cung
xung chiếu, Khoa Quyền, Tả Hữu hợp chiếu: có bằng cấp, có địa vị, có
quyền hành, có quý nhân giúp đỡ.
-Mệnh vô chính diệu có Nhật Nguyệt
hãm địa chiếu, Cô Quả, Song Hao, Mã ngộ Sinh : trẻ lận đận, xa
cha mẹ, khó thành công ở đời.
-Mệnh vô chính diệu có Triệt, giáp Quyền
Lộc, Đào, Thiên Không : phú quý vẹn toàn, sống lâu, có óc mưu sĩ, giỏi
tính toán.
-Mệnh vô chính diệu Tuần Triệt
án ngữ, Thiên Không hội họp, Song Lộc xung hợp chiếu : được
hưởng giàu sang, phú quý, nhưng không bền.
-Mệnh vô chính diệu ngộ Song Hao –
Tang Hổ - Xương Khúc - Quyền : cuộc đời buồn nhiều hơn vui, tiền không tụ,
nhưng có học thức, địa vị bậc trung.
-Mệnh vô chính diệu, Thai Tọa, Quyền
Lộc, giáp Khôi Việt: lúc nhỏ vô cùng vất vả, lớn lên có danh phận và giàu có.
-Mệnh vô chính diệu có Lộc tồn
xung chiếu, Thai Tọa, Quang Quý : học giỏi, có bằng cấp, càng lớn tuổi
càng an nhàn, sung sướng.
-Mệnh vô chính diệu ở mão
hay dậu thì Tử Tham chiếu, Thai Tọa – Đào Hồng – Quang
Quý – Thai Cáo – Song lộc : số phong lưu, may mắn.
-Mệnh vô chính diệu ở dần
hay thân thì giáp Tử Phủ, Lộc Quyền xung chiếu : giàu sang và sống
thọ.
-Mệnh vô chính diệu - Lộc + Thai
Cáo + Khôi Việt : lúc nhỏ vất vả, lớn lên có tiền tài và địa vị.
-Mệnh vô chính diệu + Kình Hình
Linh Kị + Thái tuế : tiền vận rất vất vả.
-Mệnh vô chính diệu có Nhật Nguyệt
chiếu, gặp Khôi Việt + Thai Cáo + Tứ linh + Quyền : có danh hơn là có lộc.
“Mệnh Vô Chính
Diệu đắc Tam Không, hữu Song lộc, phú quý khả kỳ'', nhưng
dù khả kỳ thì sự khả kỳ ở đây cũng đã báo hiệu 1 sự lên xuống bất thường rồi.
*Còn đắc Tứ
không thì Tuần Triệt ở đây là con dao 2 lưỡi, tốt xấu lẫn lộn
nên rồi cũng chẳng được toàn vẹn.
Nhận xét
Đăng nhận xét