LÁ SỐ TỬ VI & CUỘC ĐỜI VUA QUANG TRUNG


Lá Số Tử Vi của Vua Quang Trung
Bài của GS Phạm Kế Viêm

Vua Quang Trung sinh giờ Tuất ngày 5 tháng 5 năm Nhâm Thân (1752). Mệnh đóng tại cung Thân (kim) có Thất Sát (kim phù Mệnh Kim đắc cách: Thất Sát triều đẩu - Thất Sát Dần Thân nhất sinh tước lộc vinh xương: phú quý tột bực) hội Thái Tuế, Khoa Quyền Tả Hữu. THÂN cư Tài Bạch tại Thìn (thổ sinh kim) có Tham Lang miếu vượng phùng Bạch Hổ, Kình (đắc địa) hội Hỏa Linh (danh trấn chư bang - uy quyền lừng lẫy). Cung Quan Lộc tại Tý có Phá Quân (Phá Quân Tý Ngọ gia quan tiến lộc: phú quý song toàn, ngộ Kình: uy vũ bất khuất). Đó là lá số Sát Phá Tham cách (cả 3 sao đều  miếu vượng hội Kình Hình Linh Hỏa đắc địa) hội Tử Phủ + Trung Tinh đắc cách (Long Phượng Hổ Cái Khoa Quyền Tả Hữu Xương Khúc). Mệnh Thái Tuế + Sát Phá Tham + Khoa Quyền: Văn võ song toàn, tự cho mình có sứ mạng chính danh vì Dân vì Nước mà hành động; Thất Sát + Bạch Hổ + Kình = Bạo Hổ băng hà (hổ dữ qua sông) nhưng Thất Sát tại Mệnh (yểu tử: vua chết lúc 40 tuổi),  Phá Tham + Kình Hỏa Linh = bách chiến bách thắng, không có đối thủ (độc cô cầu bại). Hóa Khoa tại Mệnh (đi với Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Cự Nhật + Xương Khúc: số đại khoa, thông minh làm bất cứ việc gì cũng thành công, đi với Sát Phá Tham đắc cách: có tài Đại Tướng bài binh bố trận, cầm quân như Napoléon đánh đâu thắng đó). Sát Phá Tham Đắc cách hội Tử Phủ Tứ Linh Khoa Quyền như  ta đã thấy tài dụng binh thần tốc chỉ trong 15 ngày từ Phú Xuân ra Thăng Long, trong 6 ngày đã phá tan 20 vạn quân Thanh với chiến công rực rỡ Mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, một Võ công oanh liệt bậc nhất trên Hoàn Cầu. Vua không những giỏi về bài binh bố trận, mà còn biết quý trọng Hiền Sĩ, với La Sơn Phu Tử là một trường hợp điển hình. Biết xử dụng người tài như Ngô Thời Nhiệm, không câu nệ người của Triều Đình cũ; xử dụng Chữ Nôm để không lệ thuộc vào chữ Hán. Truyền thuyết nói Vua có cặp mắt Thư Hùng (mắt to mắt nhỏ vì cung Giải Ách có Thái Âm ngộ Triệt, Thái Dương chiếu ngộ Tuần). Bản chất độ lượng từ tâm, quân tử, không hẹp hòi, tàn nhẫn dù đối  với kẻ thù (cho Vương táng đối với Trịnh Khải).
 
Dòng dõi của Vua Quang Trung
 
Ba anh em Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ thực sự là họ Hồ, có cùng một ông Tổ với Hồ Quý Ly (tên thật là Lê Quý Ly có con gái là Hoàng Hậu của vua Trần Thuận Tông, sau bị Ly giết lên ngôi đổi lại họ Hồ niên hiệu Thanh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, xây kinh thành Tây Đô tại An Tôn tỉnh Thanh Hóa - làm vua được 7 năm. Năm Đinh Hợi 1407 bị Quân nhà Minh bắt cả 2 cha con cùng với Nguyễn Phi Khanh, bố của Nguyễn Trãi, đem về Tàu) là ông Hồ Hưng Bật gốc ở tỉnh Chiết Giang bên Tàu. Bật được nhà  Nam  Hán cử sang làm Thái Thú Diễn Châu năm Canh Dần 930. Về sau Bật ở lại huyện Quỳnh Lưu (Diễn Châu) biến thành Trại Chủ. Về sau phần lớn  hậu duệ của họ Hồ định  cư  tại Nghi Xuân (Nghệ An). Hồi Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Mùi 1655, Chúa Nguyễn Hiền Vương sai tướng ra đánh Trịnh tại Nghệ An chiếm được 7 huyện trong đó có Huyện Nghi Xuân. Trong 5 năm chiếm đóng Chúa Hiền ra lệnh bắt nhiều gia đình của 7 huyện phải dời cư vào những vùng mới chiếm được của Chiêm Thành tại Phú Yên, Diên Khánh (Bình Định ngày nay)  để khẩn hoang. Đa số bị định cư tại ấp Tây Sơn, trong đó có gia đình họ Hồ. Đến đời thứ ba là Hồ Phi Phúc (1690 – 1760) sinh được 3 con trai là Nhạc, Lữ, Huệ.
Năm Tân Mão 1771 Nhạc thấy Trương Phúc Loan chuyên quyền, lòng dân oán giận, bèn rủ 2 em là Lữ và Huệ đổi thành họ Nguyễn, dựng lên chiêu bài «diệt Trương Phúc Loan phò Chúa Nguyễn » để thu phục Nhân Tâm. Sau khi Vua Quang Trung đại phá quân Thanh (mùa xuân Kỷ Dậu 1789) tuy đóng đô ở Phú xuân (Huế hiện nay) vẫn không quên đất Tổ ở Nghệ An bèn cho xây ở vùng này một Kinh Đô mới gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. 
Cung Phúc Đức: đóng tại Tuất (thổ sinh kim mệnh) có Vũ Tham đắc địa + Mã Khốc Khách (Tử Phủ Vũ Tướng) cho ta thấy Vương không phải là « Nông Dân Áo vải dựng cờ » cũng là dòng dõi Quý Tộc « một thời vang bóng » vì Tang Kỵ Tuần  nên dòng họ chìm nổi bị phân tán bốn phương. Đến cung Phụ Mẫu bị Phục Binh + Địa Kiếp, tuy 3 đời trước bị di dân từ Nghệ An vào khai khẩn đất hoang của Chiêm Thành, lúc đầu có khó khăn nhưng đến đời Cha là Hồ Phi Phúc cũng đã trở thành điền chủ giầu có. Cung Huynh Đệ có Song Lộc Hồng Hỉ Thanh Long Lưu Hà nên sự nghiệp của Vương bắt đầu từ sự kết hợp của Anh Em (Nhạc và Lữ). Nhạc giầu có nhờ Kinh Doanh, năm Quý Tỵ 1773 đã dùng mưu chiếm Quy Nhơn. Năm Bính Thân 1776 sau khi Lữ chiếm được Gia Định, Nhạc thấy thế đã mạnh tự xưng là Tây Sơn Vương, đến năm Mậu Tuất 1778 xưng Đế, đặt niên hiệu là Thái Đức đổi Kinh Đô Đồ Bàn làm Hoàng Đế Thành.
 
Các Đại Vận 10 năm
 
Đại Vận 15 - 24 tuổi  tại cung Phụ Mẫu có Thiên Đồng ngộ Thiên Không, Đào Hỉ, Phục Binh, Địa Kiếp đã báo hiệu những Trận chiến tàn khốc (Sát Phá Tham ngộ Không Kiếp) nhờ Tam Minh đã có tiếng vang: năm Quý Tỵ 1771 tiểu hạn vào cung Huynh Đệ nên Anh Em đã dấy binh chiếm được Quy Nhơn, trong Đại Vận này vẫn trong vòng kiềm tỏa của Anh Em và gia đình (lúc đó Vương mới 20 tuổi).
Đại Vận từ 25-34 tuổi  tại Cung Phúc Đức bắt đầu  từ Bính Thân 1776 (vận Thái Tuế: lưu Thái Tuế tại Mệnh) sự nghiệp của Huệ mới ló rạng! Chính năm này Nguyễn Nhạc xưng Vương phong cho Lữ làm Tiết Chế, Huệ (25 tuổi, vận Thái Tuế) làm Long Nhượng Tướng Quân.  Tuy chiếm được Gia Định từ năm 1776 nhưng 2 năm sau Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định, rồi lại tái chiếm. Năm Giáp Thìn 1784, Ánh cầu cứu quân Xiêm bị Huệ dùng phục binh trong Trận Rạch Gầm - Xoài Mút đã phá tan 300 chiến thuyền chỉ còn 2 ngàn tàn quân thoát lên Cao Miên rồi chạy về nước cùng với Ánh (tiểu hạn Ở Cung Thê, lưu Thái Tuế vào Thân ở Tài Bạch có Sát Phá Tham ngộ Kình, Hỏa Linh). Nhà Tây Sơn lúc Nguyễn Nhạc xưng Đế  cũng chỉ giới hạn từ Quảng Ngãi gồm Quy Nhơn đến Phú Yên (dài chừng 150 km) tuy có chiếm được Gia Định nhưng Nguyễn Ánh lúc nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc đi Pháp cầu viện, lúc cầu viện Xiêm La nên Tây Sơn vào Gia Định đến lần thứ 5 (Đinh Mùi 1787) miền bắc từ Thuận Hóa trở ra vẫn thuộc quyền Nhà Trịnh.
Đại Vận 35-44 tuổi   tại cung Điền Trạch tại Hợi bắt đầu từ Bính Ngọ 1786 (tiểu vận vào Mệnh - vận Thái Tuế) được Nhật Nguyệt ngộ Tuần hội Song Lộc, Khôi Việt, Tướng Ấn, sự nghiệp của Vương (đựơc tấn phong Bình Định vương) bắt đầu sáng chói.
Sau khi đánh tan 2 vạn quân Xiêm trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút ngày 25-1-1785 (cuối năm Giáp Thìn) Huệ về Hoàng Đế thành nghỉ ngơi. Tháng 6 năm 1786 (Bính Ngọ) Nhạc sai Huệ chiếm Thuận Hóa. Tháng 7 năm 1786, nghe lời Quận Bằng Nguyễn Hửu Chỉnh, Huệ tự chuyên kéo quân ra Bắc mang danh nghĩa « Phù Lê diệt Trịnh ». Trong một cuộc hành quân chớp nhoáng Huệ đánh tan quân của tướng Trịnh là Đinh Tích Nhưỡng ở cửa Luộc, rồi Quận Thạc Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây. Chúa Đoan Nam Vương Trịnh Khải lúc đó 28 tuổi, mặc nhung y, cầm cờ lên voi thúc quân Kiêu Binh ra nghinh địch, nhưng Kiêu Binh bỏ chạy; Khải chạy lên phía Sơn Tây, đến làng Hạ Lôi huyện Yên Lãng bị Nguyễn Trang lừa bắt đem nộp cho Tây Sơn. Về tới làng Nhất Chiêu, vớ được con dao bên quán nước Khải đâm cổ tự tử, đó là ngày 27 tháng 6 năm Bính Ngọ 1786. Huệ cho lấy Vương Lễ để tống táng cho Trịnh Khải (Khải sinh năm Kỷ Mão1759 chết năm Bính Ngọ1796: 28 tuổi năm xung + hạn La Hầu +Tam Tai + Thiên Không, chấm dứt 241 năm gồm 11 đời Chúa kể từ Trịnh Kiểm 1545, giai đọan Vua Lê, chúa Trịnh). Đầu tháng 8 năm 1786 Nguyễn Huệ cùng Chỉnh  vào triều kiến vua Lê Hiển Tông dâng sổ quân sĩ và dân đinh Bắc Hà để tỏ rõ hành động diệt Trịnh Phù Lê. Vua Lê phong Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Uy Quốc Công và gả Công chuá Ngọc Hân (tiểu hạn vào Mệnh, lưu Thái Tuế ở cung Thê). Nhạc hay tin vội bay ra Bắc trả Bắc Hà cho Vua Lê rồi cùng Huệ âm thầm về Nam bỏ Cống Chỉnh ở lại. Chỉnh quá sợ - vì dư đảng của Trịnh chỉ muốn moi gan mổ ruột mình - nên sáng dậy vội vàng xuống thuyền buôn theo Tây Sơn vào Nghệ An. Nhạc thương hại cho Chỉnh ở lại Nghệ An giúp tướng Nguyễn Duệ.
Tháng 10 năm 1786 về đến Hoàng Đế thành, Nhạc đổi danh hiệu, tự xưng làm Trung ương Hoàng Đế, chia nước Tây Sơn làm 3: phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ngự trị đất Gia Định, Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương ngự trị từ Thuận Hoá đến hết Nghệ An. Năm Đinh Mùi 1787 tiểu hạn vào cung Phụ Mẫu (Thiên Không+ Địa Kiếp, Phục Binh), lưu Thái Tuế tại cung Huynh Đệ (Hình, Địa Không, Cô Quả) đã sảy ra sự bất hòa giữa anh em Tây Sơn: vì Nhạc xử ép Huệ đòi Huệ nộp những báu vật lấy trong Phủ Chúa Trịnh cũng như chia đất không đều (đất xương xẩu Thuận Hóa nhỏ hẹp trong khi Lữ được vùng đất Gia Định phì nhiêu, đều do 1 tay của Huệ đầy công hãn mã). Huệ đem quân vây Hoàng Đế thành. Nhạc phải thân lên thành gọi Huệ, khóc mà nói rằng: « Nỡ lòng nào lại nồi da nấu thịt như thế ! » Huệ mới động lòng rút quân về Phú Xuân. 
Sau khi anh em Tây Sơn rút về Nam nhường đất Bắc Hà cho nhà Lê (Vua Lê Hiển Tông mất cuối tháng 8 năm Bính Ngọ 1786, vì Thái Tử mất trước nên  Đích Tôn Lê Duy Kỳ sinh năm 1765 lên nối ngôi lấy niên hiệu là Chiêu Thống) thì dòng dõi Chúa Trịnh là Trịnh Bồng trở lại hiếp chế vua Chiêu Thống; vua bèn vời Cống Chỉnh từ Nghệ An về diệt Trịnh Bồng. Nguyễn Hữu Chỉnh đem 1 vạn quân từ Nghệ An về diệt được Trịnh Bồng được Vua  Lê phong chức Đại Tư Đồ Bằng Trung Công, nên từ đó dân chúng Bắc Hà gọi là Quận Bằng. Chỉnh ở lại Đông Kinh giúp Vua Lê, ỷ có công ra mặt hiếp chế Vua, lại xúi Vua Lê cho sứ giả vào Nam đòi lại đất Nghệ An (vì quê của Chỉnh ở làng Đông Hải, huyện Chân Lộc tỉnh Nghệ An) vì nghĩ rằng 2 anh em Tây Sơn đang có mối bất hoà.
Cuối năm Đinh Mùi 1787, Huệ sai tướng Vũ văn Nhậm, con rể của Nhạc ra Bắc trừng trị Cống Chỉnh về tội chuyên quyền hiếp chế Vua, lại vô ơn trở mặt đòi đất Nghệ An (đất Tổ của Tây Sơn). Chỉnh thua cùng Vua Lê rút lên Yên Thế, Nhậm đuổi theo bắt được Chỉnh đem về Đông Kinh xé xác đúng với câu thơ Vịnh Pháo của Chỉnh «càng kêu lắm lại càng tan xác lắm», còn Vua Lê Chiêu Thống trốn về Lạng Sơn, sau sang Tàu cầu cứu Nhà Thanh. Nhậm tìm vua Lê không được phải tôn Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc, nhưng Quyền hành nằm trong tay Nhậm. Nhậm giết Chỉnh lấy được Thăng Long (Đông Kinh) có ý cậy tài tỏ ra kiêu ngạo. Ngô văn Sở mật báo tin Nhậm muốn làm phản cho Bắc Bình Vương. Vương truyền lệnh kéo quân kỵ, ngày đêm đi gấp ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Nhậm giết đi (đó cũng là một trong những nguyên nhân gây bất hoà giữa anh em Tây Sơn), rồi truyền gọi các quan văn võ nhà Lê cho vào yết kiến, đặt các quan Lục Bộ và các quan Trấn Thủ, vẫn để Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc, dùng Ngô Thời Nhiệm làm Lại Bộ Thượng Thư, để bọn Ngô văn Sở ở lại giữ Bắc Hà, còn Vương dẫn quân trở về Nam.

Đại phá 20 vạn Quân Thanh :
  
Mùa Thu năm Mậu Thân 1788 vua Càn Long mật dụ cho Tổng Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đem quân Thiên Triều sang để phù Lê diệt Tây Sơn, cho các quan nhà Lê về nước cũ (các quan đã theo Hoàng Thái Hậu và Hoàng Phi sang Tàu), tìm Tự Quân nhà Lê (tức Chiêu Thống đang trốn tránh). Tôn Sĩ Nghị lấy quân 4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu và Vân Nam được 20 vạn chia làm 3 đạo: Một đạo do quan Tổng Binh Vân Nam và Quí Châu chỉ huy sang mạn Tuyên Quang, Sơn Tây; một đạo do quan Tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống chỉ huy sang mạn Cao Bằng; còn Đại quân do Tôn Sĩ Nghị với Đề Đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy, hướng Lạng Sơn trực chỉ Thăng Long. Xuất quân ngày 20 tháng 10 năm Mậu Thân gần 1 tháng mới tới Kinh Bắc, Vua Lê Chiêu Thống đang lẩn trốn trong vùng đó ra chào mừng Nghị. Tướng Tây Sơn Ngô văn Sở nghe lời Ngô Thời Nhiệm rút lui chiến lược về Tam Điệp bỏ ngỏ Đông Kinh. Nghị và Vua Lê vào Đông Kinh ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân 1788.

Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân Vương ở Phú Xuân được tin cấp báo của tướng Ngô văn Sở rằng quân Thanh 20 vạn đã tiến vào Đông Kinh còn mình rút toàn lực lượng về trấn giữ Tam Điệp. Vương bàn với chư tướng, thì mọi người đều tâu xin Vương lên ngôi Hoàng Đế để danh chính ngôn thuận. Ngay sáng hôm sau (25 tháng 11năm Mậu Thân = 22/12/1788) trên đàn Nam Giao mới đắp ở núi Bàn Sơn, phía Nam núi Ngự Bình, Vương làm lễ tế cáo Trời Đất và lên ngôi Hoàng Đế, lấy Niên hiệu là Quang Trung (tiểu vận Thái Tuế đủ bộ Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham Liêm hội Trung Tinh đắc cách : Quần Thần Khánh Hội).

Sau khi lên ngôi Vua ra lệnh tiến quân, chỉ 5 ngày tới Nghệ An, mộ thêm lính Nghệ, huấn luyện tướng sĩ. Ngày 11 tháng Chạp năm Mậu Thân Vua tiến quân ra Bắc, tới núi Tam Điệp ngày 20 (Vua và chư tướng đi ngựa, 100.000 quân lính luân phiến đi cáng cùng 100 thớt voi). Bọn Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm tới trước mặt Vua tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, nên phải lui về giữ chỗ hiểm yếu. Vua tha tội rồi cười nói rằng: « Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định sẵn mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua 1 trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều,Ta đâu nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, thì phải nhờ Thời Nhiệm dùng lời nói khéo để đình chỉ chiến tranh. Đợi mươi  năm nữa nước ta phú cường rồi thì ta đâu sợ chúng nữa ».

Vua cho toàn quân nghỉ 10 ngày ăn Tết (tức là cho ăn Tết trước ngày mồng một Tết năm Kỷ Dậu 1789). Biết trước tin Sĩ Nghị sẽ xuất chinh ngày mồng 6 Tết, như vậy tin chắc quân Thanh và quân nhà Lê sẽ ăn Tết phè phỡn linh đình, trễ nải canh phòng, Vua bèn xuất chinh ngày 30 tháng chạp ra sức xuất kỳ bất ý, dốc toàn lực tấn công mạnh trước ngày mồng 6 và hẹn  mồng 7 vào Thăng Long để ăn mừng Chiến Thắng (một kỳ tài của Thất Sát triều đẩu + Khoa).

Vua chia quân ra làm 3 cánh :
-Trung Quân do chính Vua chỉ huy với Đại Tư Mã Ngô văn Sở và Nội hầu Phan văn Lân làm tiên phong tiến thẳng vào Thăng Long.
- Hữu Quân do 2  Đô đốc Lộc và Tuyết chỉ huy đem Thủy quân vượt biển vào sông Lục Đầu rồi Tuyết đem quân đến Hải Dương pháđồn Thanh tại đó rồi lên tiếp ứng mé Đông Thăng Long ; Lộc dẫn quân lên vùng Yên Thế để chặn quân Tàu chạy về nước.
- Tả Quân do 2 Đô Đốc Bảo và Mưu điều quân với đại bác đặt trên lưng voi, đi đường núi đánh về phía Tây Thăng Long, riêng Mưu sẽ đánh quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống ở gò Đống Đa còn Bảo sẽ tiếp ứng cho Trung Quân đánh mặt tả đồn Ngọc Hồi của Hứa Thế Hanh.

Cuộc chiến 6 ngày :
Xuất quân tối ngày 30  từ Tam Điệp đến Ninh Bình (20 km) quân Tây Sơn ào tới chém giết quân Nhà Lê; Trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Phùng Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy về sông Thanh Quyết tỉnh Hà Nam. Vua hạ lệnh cắm trại nghỉ một đêm, sáng mồng 1 vượt sông Thanh Quyết đến tối đánh Hà Nam bắt trọn ổ không sót một tên để chạy về Thăng Long báo tin. Đêm mồng 2 Tết tấn công đồn quân Thanh tại Phú Xuyên (cách Hà Nam 15km), bắt hết quân trong đồn không 1 ai trốn thoát. Từ Phú Xuyên đến Hà Hồi (15 km) vượt qua 2 con sông, nửa đêm Vua cho vây kín đồn mà ở trong không hay biết. Quân Thanh hỏang sợ kéo cờ hàng.

Đô Đốc Mưu đi đường thượng đạo đến gò Đống Đa tối mồng 4 tết cho quân bao vây đồn đóng trên gò do tri phủ Điền Châu là Sầm nghi Đống trấn giữ (đồn này chỉ cách Thăng Long chừng 5 km về phía Tây). Cuộc chiến rất ác liệt suốt đêm, bắn hết đạn, quân chết dần lại không được cứu viện Sầm Nghi Đống treo cổ lên cây đa tự tử !

Sau khi tiếp thu đồn Hà Hồi đêm mồng 3 Tết, Vua cho quân sĩ nghỉ ngơi, đợi cánh tả quân của Đô Đốc Bảo với 100 thớt voi cùng đại bác đã đến điểm hẹn, Vua hạ lệnh tấn công đồn Ngọc Hồi (cách Hà Hồi 15km) do Đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy mờ sáng mồng 5 Tết. Quân Thanh ở trong đồn đã chuẩn bị bắn súng ra như mưa. Vua sai làm những tấm ván lớn do 3 mảnh ghép lại, ngoài bện rơm thấm nước, cho 10 quân khiêng ở mặt sau, lưng đeo đoản đao, theo sau nữa là 20 khinh binh cầm khí giới dài. Rồi cho thả hơn 100 con voi chiến đi trước, khiến kỵ binh và ngựa quân Thanh hoảng sợ, chạy tán loạn. Quân ta khiêng những tấm ván cản đạn tiến lên, đến cửa đồn  bỏ ván xuống đè lên chông mìn, thuốc nổ của giặc đồng lọat  ùa vào chém giết. Vua cổ quấn khăn vàng cưỡi voi đốc chiến. Trời tối như mực, không trăng sao hai bên giáp lá cà chỉ nghe tiếng gào thét và tiếng binh khí va chạm nhau. Quân Thanh chết như rạ, đề đốc Hứa Thế Hanh tử trận.

Về phần Tôn Sĩ Nghị, nửa đêm mồng 4 Tết, nghe tin đánh dữ ở Đống Đa, sai tướng Thăng Hùng Nghiệp đi cứu viện, chưa kịp đi thì kỵ binh do thám đã về báo Đống Đa thất thủ, Sầm Nghi Đống treo cổ tự tử. Sĩ Nghị mất tinh thần, không kịp mặc áo giáp, ngựa không kịp thắng yên, bỏ cung Tây Long vượt qua cầu phao, hướng về Kinh Bắc. Vua Lê Chiêu Thống đưa Hoàng Thái  Hậu và Hoàng Tử chạy theo. Quân Thanh ùn ùn đạp lên nhau chạy lên cầu phao, cầu bị nặng gẫy sụp, làm hàng vạn quân Thanh chết đuối.
Trưa mồng 5 Tết, Vua Quang Trung tiến vào Thăng Long với áo ngự bào đen như mực, vì bị ám khói súng (như vậy là sớm hơn 2 ngày hạn định mà Vua đã phán khi xuất quân từ Tam Địêp). 

Cung Thê Thiếp và cung Tử Tức
Cung Thê Thiếp đóng tại Ngọ (hỏa) có Liêm Trinh, Thiên Tướng hội Long Phượng Xương Khúc đãn hiềm Linh Hỏa Kình Đà Tang Kị chiếu. Cung Tử Tức đóng tại Tỵ (hỏa) có Cự Môn ngộ Kiếp Sát, Thiên Hình thêm Địa Kiếp Địa Không, Phục Binh chiếu.

Vợ Cả của Vua họ  Bùi (em gái Thái Sư  Bùi Đắc Tuyên) lấy năm Nhâm Dần 1782 (tiểu hạn vào cung Thân), năm sau Quý Mão 1783 sinh con Trai Nguyễn Quang Toản (tiểu hạn vào cung Tử Tức) sau Vua Quang Trung đột ngột băng hà, Thái Tử Toản lúc đó 10 tuổi lên ngôi lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Toản còn có 2 em trai cùng Mẹ là Quang Thùy và Quang Thiệu.

Năm Bính Ngọ 1786 khi kéo quân ra Bắc với danh hiệu phù Lê diệt Trịnh, Vua được Vua Lê Hiển Tông gả Công Chúa Út  Ngọc Hân (sinh năm Canh Dần 1770 lúc đó 17 tuổi (tiểu hạn vào cung Thê tại Ngọ). Năm Mậu Thân 1788 khi lên ngôi Hoàng Đế, Vua phong Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng Hậu (Nam Cung là Bùi  Hoàng Hậu). Ngọc Hân mới chính là hình ảnh Liêm Tướng Long Phượng Xương Khúc trong cung Thê của Vua. Bài thơ khóc Vua nhan đề Ai Tư Vấn trong đó có mấy câu điển hình cho ta thấy «tài sắc vẹn toàn» của Bắc Cung:

Từ nắng hạ, mưa Thu trái tiết,
Xót mình Rồng mỏi mệt chẳng yên !
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu Thần đã đảo, thuốc Tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng ?
Ngán thay máy Tạo bất bằng,
Bóng mây thoắt đã ngắt chừng xe Loan !

Bắc Cung Hng Hậu có 1 trai là Quang Đức và 1 gái là Ngọc Bảo.
Vì hầu hết Hung Sát Tinh chiếu Cung Thê và cung Tử nên vợ con Vua đều chết thảm dưới sự trả thù tàn độc của vua Gia Long.
 Tháng 8 năm Nhâm Tuất 1802 vua Gia Long về Kinh Đô Phú Xuân đem vua tôi Tây Sơn về làm « lễ hiến phù ».

Quang Toản, Quang Thiệu và các tướng Tây Sơn bị đưa ra pháp trường xử tử. Theo lời kể của Cố Đạo Lemonnier de la Bissachère do một giáo dân được mục kích cuộc hành hình :
Họ đào mả Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đem 2 bộ xương khô tới pháp trường vứt bừa bãi xuống đất, sai lính đái vào 2 đầu lâu, để Quang Toản nhìn thấy mà đau khổ. Rồi đập nát những bộ xương ấy. Xong rồi họ cho các phạm nhân một bữa cơm ngon, nhưng chỉ có mình Quang Toản ăn còn Quang Thiệu không chịu ăn. Đao phủ căng dây 4 chân tay của Toản rồi cho 4 con voi xé ra làm 4 mảnh, đầu chặt sau. Thiệu cùng tướng Trần Quang Diệu bị chém đầu. Nữ tướng Bùi thị Xuân vợ Diệu cùng con gái 13 tuổi bị voi xé xác. (Quang Thùy tự vẫn khi bị bắt tháng 7 /1802)

Bắc Cung Hoàng Hậu đem 2 con thơ Quang Đức 14 tuổi và Ngọc Bảo 12 tuổi trốn xuống Quảng Nam; sau bị bắt, bà bị ép uống thuốc độc tự tử còn 2 con bị thắt cổ chết, chấm dứt  30 năm của triều đại Tây Sơn (1773-1802).

Ấp Tây Sơn nằm trong rừng đồi An Khê là nơi có nhiều tài nguyên về người, voi, ngựa, sắt, gỗ. Địa thế lại hiểm trở, từ Quy Nhơn đến An Khê chỉ có độc nhất con đường «sạn đạo» hẹp nằm giữa rừng cao nhiều thú dữ (nay là Quốc lộ 19). Đó là địa lợi cho cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

Truyền thuyết nói Mả của Ông Tổ của dòng họ Tây Sơn được táng vào ngôi huyệt quý trên núi vùng Tây Sơn. Những tay Long Hổ Án Sa đều hình tròn (nên gọi là con Kim). Vì mạch Sơn Cước khi kết phát thì phát võ tuy Anh hùng cường liệt, phát nhanh và không bền, vì trên núi, nên Minh Đường thiếu Thủy Tụ nên Đa sát (không những cho Thiên hạ mà còn con cháu của dòng Họ). Vua Quang Trung tuổi Nhâm Thân  mạng Kim (can Nhâm thủy, chi Thân kim) được hưởng trọn của ngôi Mộ kết phát (Nhạc tuổi Kỷ Tỵ mạng Mộc, Lữ tuổi Tân Mùi mạng Thổ). Như trên ta đã thấy Anh hùng cường liệt ở 2 trận Xoài Mút và Đống Đa. Không bền : Vua chết năm 40 tuổi, sự nghiệp nửa đường đứt gánh (bỏ tục lệ cống phẩm sang Tàu bằng người vàng; thay chữ Nôm làm văn tự chính thức của Quốc Gia; chuẩn bị đánh nhà Thanh). Đa sát: vợ con chết thảm dưới sự trả thù của Gia Long.




Nhận xét