Người
xưa bảo: “Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền định
” (Một miếng ăn một miếng uống đều đã được định trước), “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” (Mưu tính nơi người mà thành bại do Trời).
” (Một miếng ăn một miếng uống đều đã được định trước), “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” (Mưu tính nơi người mà thành bại do Trời).
Người
xưa lại bảo “Đức năng thắng số” (Phúc đức có thể thắng số mệnh) “Nhân lực thắng
Thiên” (Khả năng con người có thể cải số Trời)…
Hai lập
luận trên đây tương đối mâu thuẫn, mà từ lâu chúng ta còn phân vân, không rõ luận
thuyết nào đúng hơn, vì mỗi luận thuyết đều có những sự tích chứng minh.
Như bảo
số mệnh do Trời thì có những người số chết đói, chết đuối dù có né tránh, rốt
cuộc vẫn chết đói, chết đuối.
Còn bảo
Đức năng thắng số thì cũng có những trường hợp đáng lẽ phải chết đói, chết yểu,
mà nhờ biết tu tỉnh, làm nhiều âm đức, được thoát chết, sống lâu, lại khá giả
chẳng hạn.
Vậy luận
thuyết nào đúng hơn? Sau đây xin có đôi lời dãi bày cùng các bạn.
Số mệnh
con người, do đâu?
Con người
được hình thành bởi hai phần chính: thể xác do cha mẹ sinh ra và linh hồn tiếp
nhận nơi Tạo hóa, và linh hồn là Tiểu Linh-Quang trong khối Đại Linh Quang của
Tạo hóa. Vậy con người là một Tiểu Thiên địa, hay một Tiểu Vũ trụ.
Nhưng
phải chăng Tạo hóa bất công, khiến con người có kẻ giàu sang, sung sướng, người
lại nghèo hèn, khốn khổ, dù cùng sinh ra trên một dãy đất, trong một gia đình,
hoặc cùng một năm, tháng, ngày, giờ với nhau?
- Chắc
hẳn không phải thế.
Các tôn
giáo và hầu hết loài người đều tin rằng có Thượng Đế, Chúa tể Càn Khôn, cầm quyền
thưởng phạt muôn loài.
Nhưng
trộm nghĩ, tuy Thượng Đế là đấng Chí tôn, quyền năng vô tận, nhưng cạnh Ngài
còn có một cái “Luật” mà Lão Tử tạm dùng chữ “ĐẠO” để gọi, đó là luật Trời, hay
Thiên lý, mà Thượng Đế tùng theo, để điều hành vũ trụ (cũng như một Quốc gia,
tuy vị Nguyên thủ là trên cao nhưng vẫn phải tuân hành Hiến pháp).
Do đó,
sở dĩ có kẻ sướng người khổ là do số mệnh an bài, nhưng số mệnh chẳng phải do
“ông Trời” hay các vị Thánh Thần sắp đặt, cho người này giàu, bắt người kia
nghèo mà là do “NGHIỆP” của chính con người, tức luật Nhân quả.
Nghiệp
và luật Nhân Quả
Không
ai có thể biết được con người có từ bao giờ, trải qua bao nhiêu kiếp, nhưng
theo thuyết luân hồi thì hẳn đã quá nhiều!
Mỗi kiếp,
con người đã làm bao nhiêu điều lành lẫn điều dữ, phúc có, tội có, năm này
tháng nọ chất chồng, có khi chưa chịu thưởng phạt đúng mức đã mãn số, lại luân
hồi kiếp mới để “trả nợ” cũ và lại tạo thêm “Nhân” mới.
Bởi thế
mà trong lá số Tử Vi của một người, có những sao tốt, sao xấu lẫn lộn, cung này
cung nọ liên quan chằng chịt nhau, biểu hiện cái “Nghiệp” của người ấy, trồng
cây gì được quả nấy, như bóng với hình, mà trong đó Vận hạn là con đường bắt buộc
cá nhân phải trải qua để trả Nghiệp cũ (cả thưởng lẫn phạt), đồng thời tạo Nghiệp
mới.
Nghiệp
có lành có dữ thì Vận số có tốt có xấu. Vận tốt thì được thụ hưởng giàu sang
sung sướng, vận xấu thì chịu nghèo hèn, hoạn nạn nhưng cán cân nghiệp lành,
nghiệp dữ không đều, thì vận số cũng không đều nhau, do đó Họa và Phúc lẫn lộn
hoặc nhiều hoặc ít, chẳng hạn tuy giàu sang mà đau ốm, vợ chồng bất hòa, con
cái hư hỏng, hay ngược lại tuy nghèo hèn mà ít nạn tai, vợ chồng hòa thuận, con
cháu hiếu thảo….
Cải số
mệnh được không?
Như đã
trình bày ở trên, thì số mệnh đã an bài do nghiệp của nhiều tiền kiếp, hễ vay ắt
phải trả, cho nên số mệnh con người như đã được lồng vào một cái khung và vận hạn
ví như một con đường duy nhất, bắt buộc con người phải đi qua, một lộ trình đã vạch
sẵn.
Bởi vậy
trên nguyên tắc, số mệnh là số mệnh, khó mà cải đổi được cái căn bản, tức cái
khung của số mệnh, hay là những “nghiệp lớn”.
Nghĩa
là nghiệp cũ phải trả, dù thụ hưởng hay bị hình phạt. Do đó chúng ta thấy có những
người hung ác mà vẫn giàu sang, phè phỡn, còn người hiền lương, tu niệm, làm
phúc lại cứ gặp hoạn nạn, là vì nghiệp cũ chưa “thanh toán” xong, mà “Nhân” mới
chưa kịp có “hiệu lực”.
Tuy
nhiên, con người có thể cải được một phần số mệnh vận hạn của mình, nhưng rất
ít, hơn nữa, chẳng phải ai cũng có khả năng hoán cải, dù có cải cũng chỉ cải được
vận số nhỏ, tức các nghiệp nhỏ thôi. Cũng ví như “cái khung” vẫn y nguyên, mà
“cái cảnh” có thể thêm hoặc bớt. Đó là tạo “nhân” (tốt xấu) mới để bù đắp “quả”
(xấu tốt) cũ.
Xin đơn
cử vài ví dụ, nếu dễ cải được số thì thuở xưa Văn Vương đã chẳng bị giam cầm 7
năm nơi Dũ Lý, Khương Tử Nha chẳng đợi đến 70 tuổi mới đặng công hầu. Tôn Tẫn
khỏi bị chặt chân và bảo vệ nước Yên khỏi bị Tần thôn tính. Khổng Minh thống nhất
được giang sơn thời Hán mạt. Hạng Võ và Hàn Tín đều anh hùng. Hạn xấu đến, đều
chết thảm; lại như Lương Võ Đế cất 72 ngôi chùa mong cải số, rốt cuộc vẫn chết
đói ở Đái Thành.
Ngay thế kỷ hiện tại, những nhân vật muốn xoay thời tạo thế, đem tài trí đấu tranh, mà không thuận với cơ trời rồi ra vẫn thất bại.
Ngay thế kỷ hiện tại, những nhân vật muốn xoay thời tạo thế, đem tài trí đấu tranh, mà không thuận với cơ trời rồi ra vẫn thất bại.
Có thầy,
sau mấy chục năm xem tướng số đã được chứng kiến nhiều trường hợp, có những người,
sau khi đoán là vận hạn xấu, thầy khuyên nên an phận, chớ mưu việc lớn, liều
lĩnh mà thất bại hoặc gặp nạn. Mặc dù có tin số mệnh song họ tự tin, cố đem tài
sức, mưu trí (xin lưu ý là tài sức chứ không phải Đức) chống lại số mệnh, mà
càng hoạt động to lớn, càng sa lầy hơn.
Lại có
những trường hợp, khách xem về các sự việc bình thường hằng ngày, để biết thành
bại, được mất, sau khi gieo quẻ Dịch, quẻ ứng xấu, thầy bảo thẳng với khách là
không hy vọng gì… khách buồn bã ra về, dùng mọi phương tiện, mưu mẹo, kể cả tiền
bạc, cố xoay sở, nhưng rồi vẫn không kết quả, (vì hoàn cảnh không thuận lợi, được
cái này hỏng cái kia, như định mệnh khiến xui như vậy) rốt lại số vẫn là số!
Cải số
bằng cách nào?
Theo
thiển ý thì có thể tạm chia thành 2 phương thức: “tiêu cực” và “tích cực”
- Về
“tiêu cực” thì tương đối đơn giản hơn, có nghĩa ăn ở và hành động thuận theo số
mệnh và Thiên Lý. Không gieo gió thì khỏi gặt bão. Khi gặp vận tốt thì nương đó
tiến lên để thành đạt. Lúc gặp vận xấu thì chớ liều lĩnh, làm bạo, thấy hao tài
thì chớ cho vay mượn, thấy đau ốm thì gìn giữ sức khỏe, thấy nạn tai thì tránh
xe cộ, sông nước, thấy thị phi kiện tụng thì nên nhẫn nhịn, tránh phạm pháp…Tuy
đến Năm, Tháng, Ngày, Giờ đó, vẫn bị hạn, song có thể nhẹ bớt ít nhiều.
Như có
một ông tuổi Tân Mùi thường hay xem số, thầy có xem cho ông ta và đoán rằng khoảng
giữa tháng ông có tai nạn nhẹ, độ hơn tuần lễ sau, ông đến nhà thầy với mấy vết
băng ở mặt và tay chân. Hỏi ra mới biết ông vừa ngộ nạn, bị xây xát cả người.
Ông nhờ
thầy xem tiếp coi còn rủi ro gì nữa không? Thầy gieo quẻ Dịch, lần này quẻ ứng
bổn mạng cũng xấu, e còn tai nạn nữa. Ông lại nhờ thầy đoán kỹ xem ứng vào 1
ngày cụ thể nào …sau đó ít lâu ông lại đến, khen thầy đoán rất đúng và thuật rằng:
“Chính cái ngày ấy, ông cố ở nhà suốt ngày, không ra khỏi cửa, 8 giờ tối ông ăn
cơm xem ti vi, kể như yên ổn. Nhưng đến 10 giờ đêm, trước khi ngủ, ông xuống
nhà sau đi tiểu, bất ngờ trợt chân ngã nằm sõng sượt bất tỉnh dưới đất, may người
nhà hay biết kip đỡ lên xoa bóp, mấy phút sau mới tỉnh.
Ông kết
luận “tưởng ở nhà yên thân, hóa ra cũng bị ! Nhưng may là ở trong nhà chỉ bị
xoàng, chứ nếu ngoài đường sá, chắc nặng hơn, chưa biết sẽ như thế nào”. Còn
nhiều trường hợp tương tự, kể ra không hết.
- Về
phương diện “tích cực” phức tạp hơn, nhưng tựu trung là cố gắng làm nhiều việc
“Âm đức” để hóa giải các nghiệp nặng. Nhưng phải thật thành tâm, đầy thiện ý,
hành động một cách tự nhiên theo lương tâm không tính không vụ lợi, không cầu
danh, thì việc làm tuy nhỏ mà có khi Âm đức lại lớn.
Chứ
không phải ỷ có nhiều tiền, vung tiền của phi nghĩa ra, gọi là bố thí, làm phúc,
để được khen ngợi, ca tụng, hoặc giả làm lấy có, lấy lệ, cúng chùa, lễ Phật, giải
sao, giải hạn…tuy là những việc làm có tính
cách từ thiện, cũng hay, cũng là những “Nhân” lành, song chưa thể gọi là “Âm đức”
được. Vì Tạo hóa chí công vô tư, hẳn không vì nhiều tiền mà cho nhiều phúc, còn
ít tiền lại cho ít phúc hay sao?
Xin đơn
cử vài việc làm có tánh cách Âm đức. Như thấy vợ chồng người ta xích mích, định
lìa bỏ nhau, mình cố công khuyên bảo, trợ giúp cho họ hòa hợp, sống chung lại để
cùng nhau nuôi dậy con cái; Thấy người chết đuối, mình chẳng ngại nguy hiểm, cứu
vớt người ta sống lại; Thấy người nghèo khó, động lòng trắc ẩn, mình tận tâm
giúp đỡ, có bao nhiêu giúp bấy nhiêu, mà không nghĩ đến sự đền bù, hay được ca
tụng…như thế mới gọi là “Âm đức”, có tác động mạnh đến “Nghiệp”, cảm động lòng
trời, mới có ảnh hưởng ngay vào số mệnh và vận hạn (Như tích ông Lê Bùi Độ đời
Đường trả đai ngọc cho người, chuộc mạng cha, chẳng hạn).
Một vài
phương thức khác
- Nhờ Đức
tin và lòng thành, tức những người tiền căn, hiện kiếp có sự liên quan, giao cảm
với cõi Trung giới hay cõi Âm, nay vận hạn tuy xấu, gặp hoạn nạn, nhưng ăn ở hiền
lương, ngay thật, lại có đức tín và lòng thành tất được Thánh Thần và các vong
linh quá vãng phù trợ, thấy dữ hóa lành.
- Mồ mả
tổ tiên, phúc đức hay tội lỗi của ông bà cha mẹ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến vận
số con người. Ví dụ: vận hạn đang xấu, có ông cha khuất núi mà an táng nơi đất
kết phát thì có ảnh hưởng tốt. Hoặc biết con cái số phải long đong mà cha mẹ biết
làm phúc tích đức thì con cái được nhờ, sớm thì hiện tại, chậm thì tương lai.
- Ngoài
ra, vấn đề chỗ ở, nhà cửa, bếp núc cũng có ảnh hưởng một phần vào vận số con
người. Chẳng hạn như số mệnh đã tốt mà chỗ ở được vùng đất tốt, nhà cửa bếp núc
đặt đúng phương hướng với mệnh, thì sự tốt tăng thêm. Nếu vận hạn xấu mà dời chỗ
ở cho hợp phong thủy, nhà, bếp đặt hướng tốt hợp với cung Mệnh của mình thì
cũng đỡ được khá nhiều.
Để tạm
kết luận bài này, xin thưa cùng quý bạn rằng: Chúng ta nằm trong “quỹ đạo” của
Nghiệp, chi phối bởi số mệnh, cho nên số - mệnh vẫn là số mệnh. Chúng ta tìm hiểu
số mệnh để ăn ở, hành động hợp với số mệnh hay Thiên lý, để tránh điều dữ tìm điều
lành.
Chúng
ta đừng tự phụ bảo rằng cải được số mệnh bằng tài sắc và mưu trí, đã vô ích mà
còn nặng nghiệp hơn !
Nếu
chúng ta có một định số kém sáng sủa, chúng ta cũng chớ quá bi quan, phó mặc số
mệnh, tới đâu hay đó, rồi cái gì cũng Số, cái gì cũng Mệnh! Không làm gì cả,
cũng vô ích. Mà chúng ta phải cố công bồi tu Âm đức để hóa giải Nghiệp cũ (tùy
theo cán cân Đức và Số).
Ví dụ
phúc đức tạo ra chưa đủ đền bù Nghiệp cũ quá nặng, chúng ta có thể hãnh diện rằng
đã gieo được “Nhân” lành, mà khi Nghiệp cũ trả xong chắc chắn “Quả” lành sẽ đến.
Cũng
xin lưu ý là chính bản thân ta mới có thể tự cải số cho chúng ta mà thôi. Ngoài
bản thân ta ra không ai cải số giùm ta được, kể cả các đấng vô hình.
Dựa theo bài viết của tác giả Huyền Linh
Nhận xét
Đăng nhận xét